Bản án 10/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2018/TLST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

Trần Xuân H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 20 tháng 9 năm 1992 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số nhà 131, đường A, khu B, thị trấn K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân T và bà Ngô Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 10/01/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 02 năm về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; tiền sự: Không có; nhân thân: Năm 2012, bị cáo phạm tội Gây rối trật tự công cộng, đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định từ ngày 06/11/2017 đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Trần Thị V; sinh ngày: 09/02/1997; vắng mặt.

2. Bà Hoàng Thị H; sinh ngày: 15/02/1977; có mặt.

Cả hai cùng địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn;

- Người làm chứng: Chị Nông Quỳnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 03/9/2017, Trần Xuân H cùng Lý Viết H1 và Đường Văn L đến quán Karaoke tên là “V” của bà Hoàng Thị H để uống bia. Sau khi uống hết 01 két bia thì H1 và L đi về trước, còn Trần Xuân H ở lại vào quầy thanh toán thì gặp và trêu đùa Nông Quỳnh A. Khi đó, Trần Thị V là người trông quán nhìn thấy và bảo H đừng trêu ghẹo linh tinh nhiều, H nói “Tao không liên quan gì đến mày”, sau đó V đòi H trả lại thẻ ATM (Vì trước đây H có mượn thẻ ATM của V sử dụng) thì H chửi V “Chuyện của mày không ra gì đâu”, V chửi lại “Anh cũng chẳng ra gì đâu”, sau đó H nói “Mày đợi đấy” rồi ra ngoài lấy xe mô tô BKS 12K3-3797 đi về nhà lấy 01 bình xăng thể tích 05 ít, trong bình còn khoảng 1/2 xăng ở bếp của gia đình dùng để chạy máy nổ thắp sáng, đem đến quán rồi gọi V ra nói chuyện nhưng không thấy V ra nên H bực tức đạp đổ bàn ghế trong quán và đạp đổ bình xăng rồi cầm bật lửa bật lên đốt làm xăng cháy. Khi thấy ngọn lửa bùng phát cháy to lan khắp quán, H chạy ra ngoài lấy xe mô tô bỏ chạy. Quần chúng nhân dân đã báo tin cho Công an huyện Tràng Định đến phối hợp dập tắt đám cháy.

Qua khám nghiệm hiện trường xác định tài sản bị hỏng do đám cháy gây ra gồm: Toàn bộ phần mái tôn chống nóng trên diện tích 50m2; một số tài sản khác như 03 quạt cây và quạt trần; 06 chiếc bàn và ghế; 01 ti vi và đầu màn; 03 chậu cây cảnh; bể cá, khung gỗ; giây điện; giây trang trí …

Ngày 04/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn kết luận: Thiệt hại tài sản do cháy nhà của quán Karaoke của bà Hoàng Thị H giá trị là 20.612.500 đồng.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKSTĐ ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 178 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, người bị hại là bà Hoàng Thị H trình bày ý kiến: Quá trình điều tra vụ án, ngày 12/9/2017, gia đình bị cáo Trần Xuân H đã thỏa thuận với gia đình bà và đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội của H gây ra, do đó, bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Hủy hoại tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d, khoản 2, Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 53, 56, 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Hủy hoại tài sản”; đề nghị tuyên phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam, tổng hợp với hình phạt của bản án số 42/2016/HSST ngày 10/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Trần Xuân H 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung đối với bị cáo: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, sống phụ thuộc vào gia đình.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tiêu hủy toàn bộ vật chứng của vụ án do không còn giá trị sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa gia đình bị hại và gia đình bị cáo, do bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Trần Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phần tranh luận, bị cáo Trần Xuân H thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tràng Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Xuân H khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản hiện trường; các kết luận giám định; lời khai của người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, có căn cứ để xác định được rằng: Khoảng 16 giờ ngày 03/9/2017, do có mâu thuẫn với Trần Thị V là người quản lý và bán hàng của quán Karaoke tên là “V” do bà Hoàng Thị H làm chủ, nên Trần Xuân H đã có hành vi dùng xăng để đốt quán Karaoke của bà H. Qua định giá, xác định tổng giá trị tài sản bị thiệt hại do H gây ra là 20.612.500 đồng. Hành vi của bị cáo Trần Xuân H thực hiện trước ngày 01/01/2018 là ngày Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại Điều 178 của Bộ luật hình sự 2015 có hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giải quyết. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an ninh tại địa phương và xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, nếu không kịp thời chữa cháy sẽ gây hậu quả lớn về người và tài sản của những hộ dân sinh sống gần khu vực gây án. Bản thân bị cáo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhận thức được hành vi hủy hoại tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì mâu thuẫn cá nhân nhỏ nhặt, bị cáo đã cố ý dùng xăng để đốt, hủy hoại tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, do đó, cần có một hình phạt nghiêm khắc, thỏa đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung đối với các đối tượng khác. Để có mức án thỏa đáng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như sau:

[4] Về nhân thân: Năm 2012, bị cáo bị xử phạt về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo được coi là có nhân thân xấu. Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 10/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 02 năm về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, chưa hết thời gian cải tạo, thử thách, bị cáo lại tiếp tục phạm tội, do đó, trường hợp phạm tội lần này của bị cáo là tái phạm. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi gây án rồi bỏ trốn khỏi địa phương và có Quyết định truy nã, bị cáo đã ra đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, bị cáo và gia đình đã chủ động tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, người bị hại tại phiên tòa cùng có ý kiến đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nên được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về điều kiện kinh tế của bị cáo ngày 28/12/2017 thể hiện bị cáo là lao động tự do, không có tài sản riêng, sống phụ thuộc vào kinh tế gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các vật chứng của vụ án đều không có giá trị hoặc không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại bà Hoàng Thị H và chị Trần Thị V không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38; khoản 1 Điều 53; khoản 1, 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Xuân H 02 năm tù giam. Tổng hợp với hình phạt của bản án số 42/2016/HSST ngày 10/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Trần Xuân H 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 06/11/2017.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 vật dạng nhựa không rõ hình bị tác động nhiệt than hóa diện: 31cm x 25cm x 06 cm; 01 túi nilon nhỏ bên trong có chứa chất lỏng và tạp chất thu giữ tại nền nhà quán Karaoke của bà Hoàng Thị H. Các tang vật trên lưu tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định theo biên bản bàn giao ngày 07/02/2018.

- Về án phí: Áp dụng các khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Xuân H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và người bị hại bà Hoàng Thị H; vắng mặt người bị hại chị Trần Thị V. Bị cáo, người bị hại bà Hoàng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại chị Trần Thị V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

469
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về