TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 14/03/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:
Trần Văn S, sinh năm 1975; nơi cư trú: Xóm 8, xã P, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N (đã chết) và bà Phạm Thị H; có vợ là Ngô Thị T và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 313/2013/HSST ngày 05/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Nhân thân: - Ngày 02/7/1993, TAND huyện Lý Nhân xử phạt bị cáo 30 tháng tù về các tội “Bắt giữ người trái pháp luật”; “làm nhục người khác” và “Cố ý gây thương tích”.
- Ngày 10/02/2002, UBND xã M, huyện M, tỉnh Nam Định xử phạt cảnh cáo về hành vi Đánh bạc.
- Ngày 02/3/2002, UBND xã M, huyện M, tỉnh Nam Định xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản.
- Ngày 07/11/2003, TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
- Ngày 16/8/2005, TAND huyện Lý Nhân xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
- Ngày 01/6/2009, UBND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đưa bị cáo vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Ngày 02/8/2016, Công an quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đã khởi tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”; hiện vụ án đang được tạm đình chỉ.
Bị cáo bị tạm giam giữ từ ngày 27/9/2017 đến ngày 25/12/2017 và tiếp tục bị tạm giam từ ngày 18/01/2018 đến ngày 09/3/2018; hiện bị cáo tại ngoại, có mặt.
- Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Trần Văn S: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1948; nơi cư trú: Xóm 8, xã P, huyện L, tỉnh Hà Nam - Là mẹ đẻ bị cáo S, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn S: Luật sư Vũ Văn L - Công ty Luật TNHH Hà Nam thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hà Nam; địa chỉ: Số 226 đường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, có mặt.
- Bị hại: Anh Trần Đức L, sinh năm 1966; nơi cư trú: Xóm 11, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị T, sinh năm 1969; nơi cư trú: Xóm 11, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Trần Khắc H, sinh năm 1983; nơi cư trú: Xóm 10, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Trần Đăng P, sinh năm 1950; nơi cư trú: Xóm 17, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.
+ Ông Trần Ngọc H, sinh năm 1964; nơi cư trú: Xóm 17, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1960; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 27/9/2017, Trần Văn S đi bộ qua nhà ông Trần Ngọc H, sinh năm 1964 ở xóm 17, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam thì thấy chiếc xe môtô biển kiểm soát 90B2-308.02 của anh Trần Đức L dựng ở sân nhà ông Trần Ngọc H. Trần Văn S quan sát không thấy có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp; Trần Văn S lén lút đi vào trong sân nhà ông H rồi dắt chiếc xe trên đi tiêu thụ, Trần Văn S dắt xe đến khu vực xóm 10, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam thì bị bắt quả tang.
Tại biên bản định giá số 24/BB-ĐGTS ngày 02/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Lý Nhân kết luận: Chiếc xe môtô biển kiểm soát 90B2-308.02 của anh Trần Đức L có giá trị 27.891.000 đồng.
Công an huyện Lý Nhân đã trả lại chị Trần Thị T (là vợ anh L, đồng thời là chủ sở hữu) chiếc xe môtô trên, chị Trần Thị T không yêu cầu bồi thường và không có ý kiến gì khác.
Quá trình điều tra Trần Văn S có biểu hiện bất thường về tâm lý nên Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định tâm thần đối với bị cáo. Tại bản kết luận giám định về pháp y tâm thần số 22/KLĐT ngày 17/01/2018 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận:
- Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị can Trần Văn S bị bệnh động kinh toàn thể cơn lớn. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số G40.6.
- Tại thời điểm giám định, bị can Trần Văn S bị bệnh động kinh toàn thể cơn lớn kèm theo rối loạn cảm xúc thực tổn trên người bệnh liệt ½ người trái theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số G40.6 + F06.3.
- Tại các thời điểm trên bị can có đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSLN ngày 05/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Văn S về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên toà, Kiểm sát viên trong phần tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm n, p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điều 33 - Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Trần Văn S từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Tại phiên tòa người bào chữa nhất trí với tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo; về hình phạt đề nghị xử phạt tù đối với bị cáo bằng thời giam đã tạm giam.
Bị cáo và người đại diện nhất trí với quan điểm bào chữa của người bào chữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]Về nội dung: Lời khai của bị cáo Trần Văn S tại cơ quan điều tra và lời khai được công bố phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với vật chứng thu được. Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 27/9/2017, Trần Văn S đã lén lút vào nhà ông Trần Ngọc H, sinh năm 1964 ở xóm 17, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam trộm cắp chiếc xe môtô biển kiểm soát 90B2-308.02 trị giá 27.891.000 đồng của anh Trần Đức L dựng ở sân nhà ông H, trên đường đi tiêu thụ thì bị bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của Trần Văn S đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn S là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là Tái phạm -Theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo vì khi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm n, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
[5] Bị cáo có nhân thân xấu vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo được bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự
Căn cứ Khoản 1 Điều 138; Điểm n, p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điều 33 - Bộ luật hình sự năm 1999:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn S 24 (hai mươi bốn) tháng tù, được trừ thời gian tạm giam giữ từ ngày 27/9/2017 đến ngày 25/12/2017 và từ ngày 18/01/2018 đến ngày 09/3/2018; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo; người đại diện và người bào chữa cho bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày. Thời hạn trên đối với bị cáo; người đại diện và người bào chữa cho bị cáo kể từ ngày tuyên án; đối với người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 10/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 10/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về