Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 68/2018/TLST- HN&GĐ ngày 13 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2018/QĐST-HN&GĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị L. Sinh năm 1995 (Có mặt). Nơi ĐKHKTT: Khối 14, phường Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: Xóm 14, xã Quỳnh T, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Bị đơn: Anh Lê Tiến T, sinh năm: 1996 (Vắng mặt). Trú tại: Khối 14, phường Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản hòa giải, nguyên đơn Chị Trần Thị L trình bày:

Chị và bị đơn Anh Lê Tiến T kết hôn ngày 02/02/2017 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến ngày 20/3/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau. Hai bên đã sống ly thân, chị về bên nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 5 năm 2018 cho đến nay chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn Anh Lê Tiến T Vợ chồng có 01 con chung là Lê Trần N, sinh ngày 09/12/2016 hiện đang ở với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung đối với chị mỗi tháng là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành.

Về tài sản chung riêng và nợ, trong quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng đã tự thỏa thuận phân chia nay không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai biên bản hòa giải, bị đơn Anh Lê Tiến T trình bày: Anh thống nhất thời gian, điều kiện kết hôn như Chị Trần Thị L đã trình bày ở trên. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 4/2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng suy nghĩ không chín chắn nên thường xuyên xảy ra cãi vã xúc phạm nhau. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Nay Chị Trần Thị L xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn và xin được đoàn tụ.

Vợ chồng có 01 con chung, họ tên, ngày tháng năm sinh như Chị Trần Thị L đã trình bày ở trên. Con chung hiện đang ở với chị L, ly hôn anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, riêng và nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị L thấy anh T có công ăn việc làm nhưng chưa ổn định nên chỉ yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị :

- Xử cho Chị Trần Thị L được ly hôn Anh Lê Tiến T.

- Giao con chung Lê Trần N, sinh ngày 09/12/2016 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con cho chị L mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành.

Về tài sản và nợ chị L, anh T không yêu cầu giải quyết nên không xét.

Về án phí ly hôn sơ thẩm chị L phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng). Anh T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn Chị Trần Thị L với bị đơn Anh Lê Tiến T. Trong quá trình giải quết vụ án Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An đã thực hiện trình tự thủ tục giải quyết vụ án theo đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử không hoãn phiên tòa mà tiếp tục xét xử vụ án là đúng pháp luật theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L, Anh Lê Tiến T lấy nhau có đăng kết hôn ngày 02/02/2017 tại UBND phường Q, thị xã Hoàng Mai trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định. Cuộc sống chung do tính tình không hợp bất đồng quan điểm sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng phát sinh ngày càng căng thẳng. Anh T trình bày tình cảm vợ chồng đang còn nhưng bản thân anh cũng không có biện pháp gì để khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hai bên đã sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ chung sống vợ chồng từ tháng 5 năm 2018 cho đến nay. Tòa án cũng đã phân tích hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ xây dựng lại hạnh phúc gia đình nhưng khoong có kết quả, chị L vẫn kiên quyết xin ly hôn.Chứng tỏ tình cảm vợ chồng đã thực sự trầm trọng, việc anh T xin đoàn tụ là không thể xảy ra được. Nghĩ nên áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho Chị Trần Thị L được ly hôn Anh Lê Tiến T.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Ly hôn, nguyện vọng của chị L, anh T đều xin được trực tiếp nuôi con là chính đáng. Nhưng xem xét điều kiện hoàn cảnh của anh T chị L sau khi ly hôn và con chung Lê Trần N, sinh ngày 09/12/2016 đang nhỏ dưới 36 tháng tuổi, hiện đang ở với chị L. Nghĩ nên giao con chung cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và buộc anh T cấp dưỡng nuôi con cho chị L mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) tính từ nay cho đến lúc con đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp.

Về tài sản chung, riêng và nợ : Chị L, anh T thống nhất tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên không xét.

Về án phí ly hôn sơ thẩm chị L phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nạp 1.875.000đ, hoàn trả lại cho chị L 1.575.000đ. Anh T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 điều 56; điều 81; điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xử: Cho Chị Trần Thị L được ly hôn Anh Lê Tiến T.

Về con: Giao con chung là Lê Trần N, sinh ngày 09/12/2016 cho chị L được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị L mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) tính từ tháng 11/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Anh T có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm cản trở.

Về tài sản chung, riêng và nợ: Chị L, anh T thống nhất tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chưa thi hành, hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với từng thời gian chưa thi hành án.

Về án phí ly hôn sơ thẩm chị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.875.000đ (một triệu tám trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) chị L đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai theo biên lai thu tiền số 0007014 ngày 13/6/2018. Hoàn trả cho chị L 1.575.000đ (Một triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn đồng). Anh T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn nói trên kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:10/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về