Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU KHI LY HÔN

Ngày 17/10/2018, tại Phòng xét xử Toà án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 116/2018/TLST-HNGĐ ngày 24/7/2018 về việc “Tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2018/QĐXX-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2018.

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Ph, sinh năm 1975.

Trú tại: Thôn XM, xã VL, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Th, sinh năm 1973.

Trú tại: Thôn XM, xã VL, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: 02 Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Do ông Hoàng Xuân Hùng - Giám đốc Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện huyện Vĩnh Linh đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 509/QĐ- HĐTV-PC ngày 19 tháng 6 năm 2014 của ông Trịnh Ngọc Khánh - Chủ tịch Hội đồng thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Văn bản ủy quyền số 189/QĐ/NHNoVL-TH ngày 05 tháng 8 năm 2018 của ông Trương Đình Ngữ - Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vĩnh Linh). Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2018 và lời khai ngày 24/7/2018 của nguyên đơn là chị Phan Thị Phương trình bày: Chị và anh Trần Văn Thịnh trước đây là vợ chồng, hai người đã ly hôn theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn số 34/2016/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh. Tại Quyết định trên, phần tài sản chung chị Phương và anh Thịnh tự thỏa thuận mà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do không thỏa thuận được nên nay chị Phương có đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung.

Trong quá trình chung sống chị Phương, anh Thịnh đã tạo dựng được một khối tài sản, theo yêu cầu của nguyên đơn Tòa án thành lập Hội đồng định giá để có cơ sở phân chia cho anh chị gồm:

- Một ngôi nhà cấp 4, mái hiên xây năm 2007, trị giá: 30.000.000 đồng;

- Một chái bếp lợp bờ rô xi măng, tường xây bờ lô, nền láng xi măng, trị giá:3.100.000 đồng;

- Đất ở 60 m2 x 105.000 đồng = 6.300.000 đồng;

- Đất vườn 288 m2 x 22.300 đồng = 6.422.400 đồng.

Tổng trị giá tài sản: 45.822.400 đồng.

Chị Phương có nguyện vọng xin được sử dụng 162 m2 đất vườn gắn liền với chái bếp có diện tích 15,39 m2. Tổng tài sản có trị giá là 6.712.600 đồng.

Phần tài sản còn lại gồm ngôi nhà chính, mái hiên gắn liền 186 m2 đất (trong đó có 60 m2 đất ở) có trị giá là 39.109.800 đồng chị Phương đồng ý giao cho anh Thịnh.

- Về nợ: Chị Phương và anh Thịnh có vay tại Phòng giao dịch Hồ Xá-Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị- Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam số tiền là 13.000.000 đồng.

- Tại bản khai ngày 05 tháng 8 năm 2018 và tại phiên tòa hôm nay, người đại diện của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam - Phòng giao dịch Hồ Xá trình bày: Vào năm 2015, anh Trần Văn Thịnh và chị Phan Thị Phương, đứng tên vay là anh Trần Văn Thịnh có vay vốn tại tại Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam số tiền là 50.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 3906LAV201405886 ngày  03/9/2015, dư nợ là 13.000.000 đồng. Mục đích vay vốn: Chăn nuôi (Tiền lãi đã thanh toán đến hết ngày 30/6/2018). Tính đến ngày xét xử sơ thẩm (17/10/2018 ) chị Phương, anh Thịnh còn nợ 7.900.000 đồng tiền gốc và 37.306 đồng tiền lãi. Tổngcộng là 7.937.306 đồng

Nay, anh chị đang phân chia tài sản chung sau khi ly hôn, đề nghị Tòa án nhândân huyện Vĩnh Linh giải quyết buộc anh Thịnh và chị Phương phải thanh toán hết số tiền nợ cho Ngân hàng. Trường hợp anh Thịnh và chị Phương không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án thu hồi, xử lý tài sản để thu hồi nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Trần Văn Thịnhđến Tòa để tham gia tố tụng giải quyết vụ án nhưng anh Thịnh vắng mặt và không có ý kiến gì nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị áp dụng: Điều 213; Điều 218; Điều 219; Điều 220 Bộ luật dân sự; Điều 33; Điều 37; Điều 59; Điều 60; Điều 62 Luật Hôn nhân gia đình.

Chia tài sản chung như sau:

* Giao quyền sở hữu cho chị Phan Thị Phương:

- Một chái bếp có diện tích 15,39 m2 trị giá 3.100.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng 162 m2 đất vườn tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh có trị giá 3.612.600 đồng. Tổng trị giá 6.712.600 đồng.

- Chị Phan Thị Phương phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị- Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018.Tổng cộng 3.968.653 đồng.

- Chị Phan Thị Phương được nhận chênh lệch về tài sản ở anh Trần Văn Thịnhlà 16.198.600 đồng.

* Giao quyền sở hữu cho anh Trần Văn Thịnh:

- Một nhà ở chính, mái hiên trị giá 30.000.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng186 m2 đất (trong đó có 60 m2 đất ở) tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện VĩnhLinh trị giá 9.109.800 đồng. Tổng trị giá 39.109.800 đồng.

- Anh Trần Văn Thịnh phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018. Tổng cộng 3.968.653 đồng.

- Anh Trần Văn Thịnh phải giao lại cho chị Phan Thị Phương 16.198.600 đồng tiền chênh lệch về tài sản. Hội đồng xét xử thấy quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát là có cơ sở và đúng pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Trần Văn Thịnh đã được TAND huyện Vĩnh Linh triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xửvắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Chị Phan Thị Phương và anh Trần Văn Thịnh được TAND huyện Vĩnh Linh công nhận thuận tình ly hôn theo quyết định số 34/2016/QĐST- HNGĐ ngày 24/3/2016. Về tài sản chị Phương anh Thịnh không yêu cầu Tòa án giải quyết mà tự thỏa thuận phân chia. Quá trình phân chia hai bên xảy ra tranh chấp nên chị Phương có đơn yêu cầu Toà án giải quyết là có cơ sở để xem xét.

Xét yêu cầu của chị Phương HĐXX thấy rằng:

Trong thời kỳ hôn nhân chị Phương và anh Thịnh đã tạo dựng được một khối tài sản với tổng trị giá 45.822.400 đồng. Đây là kết quả công sức đóng góp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xem xét để chia đôi cho chị Phương, anh Thịnh.

Sau khi ly hôn chị Phương gặp nhiều khó khăn trong việc tạo dựng chỗ ở mới, nhu cầu sử dụng đất là cần thiết. Vì vậy nguyện vọng xin được sử dụng ½ diện tích đấtcùng quyền sở hữu một chái bếp để nuôi con và tự nguyện giao căn nhà chính cùng ½ diện tích đất cho anh Thịnh sở hữu là có cơ sở.

Chị Phương và anh Thịnh phải trả khoản vay tại Phòng giao dịch Hồ Xá-Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam số tiền là 7.900.000 đồng tiền gốc và nợ lãi tính đến ngày 17/10/2018 là 37.306 đồng.Tổng cộng 7.937.306 đồng. Căn cứ vào khối tài sản chung của chị Phương và anh Thịnh, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên HĐXX áp dụng Điều 213; Điều 218; Điều 219; Điều 220 Bộ luật dân sự; Điều 33; Điều 37; Điều 59; Điều 60; Điều 62 luật HNGĐ nghĩ nên giao quyền sở hữu tài sản cho mỗi bên như sau:

* Giao quyền sở hữu cho chị Phan Thị Phương:

- Một chái bếp có diện tích 15,39 m2 trị giá 3.100.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng 162 m2 đất vườn tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh có trị giá 3.612.600 đồng. Tổng trị giá 6.712.600 đồng. Có tứ cạnh là:

+ Phía Đông giáp đường liên xã.

+ Phía Tây giáp đất thửa 839.

+ Phía Nam giáp đất thửa số 1726.

+ Phía Bắc giáp đất ông Trần Văn Thịnh. (Có sơ đồ thửa đất kèm theo)

- Chị Phan Thị Phương phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị- Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018.Tổng cộng 3.968.653 đồng.

- Chị Phan Thị Phương được nhận chênh lệch về tài sản ở anh Trần Văn Thịnhlà 16.198.600 đồng.

* Giao quyền sở hữu cho anh Trần Văn Thịnh:

- Một nhà ở chính, mái hiên, trị giá 30.000.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng186 m2 đất (trong đó có 60 m2 đất ở) tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện VĩnhLinh có trị giá 9.109.800 đồng. Tổng trị giá 39.109.800 đồng. Có tứ cạnh là:

+ Phía Đông giáp đường liên xã.

+ Phía Tây giáp đất thửa 839.

+ Phía Nam giáp đất chị Phan Thị Phương.

+ Phía Bắc giáp thửa đất số 743.(Có sơ đồ thửa đất kèm theo)

- Anh Trần Văn Thịnh phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018. Tổng cộng 3.968.653 đồng.

- Anh Trần Văn Thịnh phải giao lại cho chị Phan Thị Phương 16.198.600 đồng tiền chênh lệch về tài sản.

[3] Về án phí: Chị Phương, anh Thịnh phải chịu án phí chia tài sản tương ứngvới giá trị phần tài sản mà mỗi bên được hưởng.

[4] Về lệ phí định giá tài sản hết 1.500.000 đồng, chị Phan Thị Phương tự nguyện chịu nên không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 213; Điều 218; Điều 219; Điều 220 Bộ luật dân sự; Điều 33; Điều 37; Điều 59; Điều 60; Điều 62 Luật HNGĐ; điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS, Xử:

* Giao quyền sở hữu cho chị Phan Thị Phương:

- Một chái bếp có diện tích 15,39 m2 trị giá 3.100.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng 162 m2 đất vườn tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh có trị giá 3.612.600 đồng. Tổng trị giá 6.712.600 đồng. Có tứ cạnh là:

+ Phía Đông giáp đường liên xã.

+ Phía Tây giáp đất thửa 839.

+ Phía Nam giáp đất thửa số 1726.

+ Phía Bắc giáp đất ông Trần Văn Thịnh. (Có sơ đồ thửa đất kèm theo)

- Chị Phan Thị Phương được nhận chênh lệch về tài sản ở anh Trần Văn Thịnhlà 16.198.600 đồng.

- Chị Phan Thị Phương phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị- Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018.Tổng cộng 3.968.653 đồng.

Tổng trị giá tài sản chị Phương được hưởng là: 22.911.200 đồng.

* Giao quyền sở hữu cho anh Trần Văn Thịnh:

- Một nhà ở chính, mái hiên trị giá 30.000.000 đồng gắn liền với quyền sử dụng186 m2 đất (trong đó có 60 m2 đất ở) tại thôn Xóm Mội, xã Vĩnh Long, huyện VĩnhLinh có trị giá 9.109.800 đồng. Tổng trị giá 39.109.800 đồng. Có tứ cạnh là:

+ Phía Đông giáp đường liên xã.

+ Phía Tây giáp đất thửa 839.

+ Phía Nam giáp đất chị Phan Thị Phương.

+ Phía Bắc giáp thửa đất số 743. (Có sơ đồ thửa đất kèm theo)

- Anh Trần Văn Thịnh phải giao lại cho chị Phan Thị Phương 16.198.600 đồng tiền chênh lệch về tài sản.

- Anh Trần Văn Thịnh phải trả cho Phòng giao dịch Hồ Xá - Chi nhánh huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 3.950.000 đồng tiền gốc và tiền lãi 18.653 đồng tính đến ngày 17/10/2018. Tổng cộng 3.968.653 đồng.

Tổng trị giá tài sản anh Thịnh được hưởng là 22.911.200 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị Phan Thị Phương và anh Trần Văn Thịnh còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

* Về án phí: Chị Phan Thị Phương phải chịu 1.145.560 đồng án phí DSST, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 2.000.000 đồng theo biên lai số 0000199 ngày 24 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Linh. Hoàn trả lại cho chị Phan Thị Phương 854.440 đồng tiền tạm ứng án phí.Anh Trần Văn Thịnh phải chịu 1.145.560 đồng tiền án phí DSST.

Khi có đơn yêu cầu của chị Phan Thị Phương, thì anh Trần Văn Thịnh còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn

Số hiệu:10/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về