TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-PT NGÀY 12/04/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 12 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở TAND tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2018/TLPT-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 01/2018/HNGĐ-ST ngày 15/01/2018 của Toà án nhân dân huyện Nam Sách bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 14/2018/QĐXX-PT ngày 29 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm N, sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương (có mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Kim S, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Duy X, sinh năm 1951
Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương - (có mặt).
*Người kháng cáo: Bị đơn anh Nguyễn Kim S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Nguyễn Kim S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 22/7/2008. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc được 5 năm thì mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S quan hệ với người phụ nữ khác có con riêng nên vợ chồng thường xảy ra cãi nhau. Từ tháng 11/2017, anh S nghi ngờ chị N ngoại tình nên đuổi đánh và chị bỏ đi. Nay, anh chị đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị N xin ly hôn, anh S nhất trí.
Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 16/6/2009 và Nguyễn Huy H, sinh ngày 03/4/2011. Chị N và anh S đều có nguyện vọng xin được nuôi cả hai con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung, công sức: Anh, chị không yêu cầu Tòa giải quyết.
Tại bản án sơ thẩm số 01/2018/HNGĐ-ST ngày 15/01/2018, TAND huyện Nam Sách áp dụng: Điều 228, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Luật phí và lệ phí 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Nguyễn Kim S.
2. Về quan hệ con chung: giao cho chị Nguyễn Thị Cẩm N tiếp tục nuôi hai con là Nguyễn Ngọc D và Nguyễn Huy H; anh S không phải cấp dưỡng nuôicon.
Ngoài ra bản án còn xử lý về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/01/2018, anh S kháng cáo về phần quan hệ con chung, anh đề nghị cấp phúc thẩm xem xét cho anh được nuôi cháu Nguyễn Huy H. Trong thời gian anh chấp hành án tại trại giam anh giao cháu H cho bố mẹ đẻ anh là ông Vũ Duy X bà bà Lê Thị M chăm sóc, nuôi dưỡng.
Tại phiên tòa phúc thẩm :
- Chị N thay đổi quan điểm, chị xin được nuôi cháu D còn để anh S nuôi cháu H, anh chị không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
- Anh S vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên nội dung kháng cáo.
- Ông X nhất trí với quan điểm của anh S là ông sẽ chăm sóc nuôi dưỡng cháu H trong thời gian anh S chấp hành án tại trại giam.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của BLTTDS từ khi thụ lý đến khi xét xử. Về hướng giải quyết vụ án: Kháng cáo của anh S là có căn cứ được chấp nhận, đề nghị sửa bản án sơ thẩm về quan hệ con chung giao cho chị N nuôi cháu D, anh S nuôi cháu H và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Kháng cáo của anh S trong thời hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định nên là kháng cáo hợp lệ.
Anh S vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX xét xử vắng mặt anh S.
2. Xét đơn kháng cáo của anh S thì thấy:
Chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Nguyễn Kim S kết hôn và đã có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 16/6/2009 và Nguyễn Huy H, sinh ngày 03/4/2011. Hiện nay các cháu đều ở với ông bà nội là ông Nguyễn Duy X và bà Lê Thị M. Do anh S không đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng còn chung, là đối tượng đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương do có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nên cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu của chị N giao cho chị N nuôi cả hai con là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, anh S kháng cáo đề nghị xin được nuôi cháu H và tạm giao cháu H cho bố mẹ đẻ anh nuôi dưỡng trong thời gian anh chấp hành án, ông Nguyễn Duy X nhất trí quan điểm này của anh S; đồng thời chị N cũng có quan điểm xin được từ chối nuôi cháu H vì không đủ điều kiện kinh tế để nuôi cả hai con, đồng ý để anh S nuôi dưỡng cháu H, trong khi nguyện vọng của cháu H là xin được ở với bố. Xét thấy, sự thỏa thuận trên của các đương sự là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận, giao cho anh S nuôi cháu H, chị N nuôi cháu D; anh chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh S, sửa bản án sơ thẩm.
Anh S kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm dân sự.
Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Kim S.
- Sửa bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 01/2018/HNGĐ-ST ngày15/01/2018 của TAND huyện Nam Sách, Hải Dương về quan hệ con chung.
- Áp dụng: các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về quan hệ con chung: Chấp nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Nguyễn Kim S. Giao cho chị Nguyễn Thị Cẩm N chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 16/6/2009; giao cho anh Nguyễn Kim S chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Huy H, sinh ngày 03/4/2011 đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Tạm giao cháu Nguyễn Huy H cho ông Nguyễn Duy X chăm sóc nuôi dưỡng trong thời gian anh S chấp hành án tại trại giam.
Chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Nguyễn Kim S không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con không ai được cản trở.
- Về án phí: Anh S không phải chịu án phi phúc thẩm dân sự. Trả lại cho anh S 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0002156 ngày 06/02/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Sách do ông Nguyễn Duy X nộp thay.
- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (12/4/2018).
Bản án 10/2018/HNGĐ-PT ngày 12/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 10/2018/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về