TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 10/2017/HSPT NGÀY 13/02/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 02 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 194/2016/TLPT ngày 30 tháng 12 năm 2016 đối với bị cáo Lê Minh N, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2016/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân.
Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Lê Minh N - Sinh năm 1975
ĐKHKTT: Ấp Đường Cày, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 4/12; Con ông: Lê Minh Ẩn (chết) và con bà: Nguyễn Thùy Ngân (chết); Vợ: Nguyễn Xuân M và 03 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại.
Người bị hại: Ông Đinh Văn C - Sinh năm 1979
Địa chỉ: Ấp Dân Quân, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Xuân M - Sinh năm 1990
Địa chỉ: Ấp Đường Cày, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
- Ông Phan Văn Diện - Sinh năm 1951
Địa chỉ: Khóm 6, thị trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa; Người tham gia tố tụng khác vắng mặt;
NHẬN THẤY
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân và Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2016/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 01/7/2016, Lê Minh N điều khiển xe mô tô biển số 69F3-4930 đi đến đầm nuôi tôm công nghiệp của ông Đinh Văn C thuộc ấp Dân Quân, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau lén lút lấy của ông Còn 02 cái mô tơ dùng để kéo quạt nuôi tôm. Trên đoạn đường về đến cống Vàm Đình, thì bị lực lượng Công an đi tuần tra bắt quả tang.
Kết luận định giá tài sản số: 19/KLHĐĐG ngày 07/7/2016 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 02 (hai) cái mô tơ có tổng giá trị là 3.000.000 đồng.
Từ nội dung trên, bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2016/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm h, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 06/12/2016, bị cáo Lê Minh N kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
XÉT THẤY
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Minh N thừa nhận nội dung vụ án nêu trên là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 01/7/2016, Lê Minh N điều khiển xe mô tô biển số: 69F3-4930 đi đến đầm nuôi tôm công nghiệp của ông Đinh Văn C thuộc ấp Dân Quân, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau lén lút chiếm đoạt của ông Đinh Văn C 02 cái mô tơ dùng để kéo quạt trong nuôi tôm. Trên đường về đến cống Vàm Đình thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Tại Bản kết luận số: 19/KL-HĐĐG ngày 07/7/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Tân kết luận: 02 cái mô tơ nhãn hiệu Bảo Long loại 3.0kw, có giá trị sử dụng còn lại là 3.000.000 đồng.
Từ nội dung trên, bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2016/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử bị cáo Lê Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ
Xét kháng cáo của bị cáo Lê Minh N xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo Nhẫn gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tuy tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, nhưng nhân thân của bị cáo là xấu, bị cáo đã đã bị Tòa án nhân dân huyện U Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào năm 2002. Quá trình chấp hành hình phạt tù, bị cáo đã 02 lần trốn khỏi nơi giam và đã bị Tòa án xét xử tổng hợp hình phạt của các bản án là 07 năm 06 tháng tù. Đến ngày 01/7/2016, tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” nên án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh N 09 (chín) tháng tù là không nặng. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đúng quy định của pháp luật, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh N.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2016/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân về hình phạt đối với bị cáo.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh N 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Lê Minh N phải chịu 200.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 10/2017/HSPT ngày 13/02/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 10/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/02/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về