TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 10/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 58/2017/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp “ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2017/QĐXXST-DS, ngày 03 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
Bị đơn: Anh Hà Minh T, Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong nội dung Đơn xin ly hôn đề ngày 26 tháng 6 năm 2017, Bản tự khai, nguyên đơn - chị Hoàng Thị H trình bày: Chị H) và anh Hà Minh T đã tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã V ngày 03 tháng 5 năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung cùng gia đình mẹ) anh T thôn V, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Quá trình chung sống, hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Anh T là người ham mê rượu chè, mỗi lần uống rượu vào là gây gỗ đánh đập Chị, vì qua nhiều lần nên chị không thể chịu đựng được sự giày vò về thể xác, anh T còn xúc phạm danh dự, nhân phẩm Chị nên ngày càng có nhiều mâu thuẫn. Gia đình, hàng xóm, khuyên răn, hòa giải nhưng anh T vẫn không thay đổi. Hiện nay, hai bên đã ly thân, không còn tình cảm gì, Chị H) đã về sống cùng bố mẹ là ông Hoàng Văn N, bà Lê Thị L thôn C, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình ngày 12-6-2017 đến nay, Chị không thể trở lại chung sống cùng anh T nên xin ly hôn.
Bị đơn - anh Hà Minh T đã được triệu tập hợp lệ để tham gia giải quyết vụ án nhưng anh T đều vắng mặt, không đến Tòa án để giải quyết; không tham gia phiên tòa xét xử vụ án.
Về con chung: Chị Hoàng Thị H khai chị và anh Hà Minh T có 02 con chung tên là Hà Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 2009 và Hà Tuấn Đ, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012; hiện tại đang cùng anh T. Tại bản tự khai ngày 08 tháng 8 năm 2017, chị H trình bày nguyện vọng giao cho anh T được quyền nuôi con vì Chị chưa có công ăn việc làm. Tại bản tự khai ngày 28 tháng 9 năm 2017, chị H trình bày có nguyện vọng muốn được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Hà Tuấn Đ vì Chị đã có việc làm, thu nhập ổn định.
Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị H khai vợ chồng có tài sản chung là một số vật dụng (như xe máy loại SIRIUS trị giá 19.000.000 đồng, ti vi hiệu SamSung trị giá 12.500.000 đồng) nhưng tự phân chia; không nợ ai, không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyêt về và tài sản.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn - chị Hoàng Thị H trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn; xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Hà Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 2009; giao con Hà Tuấn Đ, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 cho anh Hà Minh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không yêu cầu anh T đóng góp tiền nuôi con chung cho Chị vì hiện nay, Chị đã có việc làm, thu nhập ổn định, đủ khả năng nuôi con, đảm bảo được cuộc sống bình thường cho con, về phía anh T, hiện tại anh T làm nghề thợ nề, thu nhập cũng đủ để nuôi dưỡng con nên không bên nào phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn cho bên nào. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh có quan điểm:
Về người tham gia tố tụng: Tòa án xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng.
Về việc tiến hành tố tụng: Việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, tiến hành tố tụng; việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự, cho Viện kiểm sát, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, những người tiến hành tố tụng chấp hành, tiến hành, thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ vào Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T; giao con chung của hai bên cho nguyên đơn-chị Hoàng Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con Hà Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 2009; giao con Hà Tuấn Đ, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 cho anh Hà Minh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không bên nào đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Về tài sản chung không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án và thủ tục tố tụng:
- Đây là vụ án có tranh chấp về quan hệ hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đều có nơi cư trú tại xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án nhưng anh Hà Minh T đều từ chối nhận; không đến Tòa án để giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa, vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa ngày 15-11-2017, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, bị đơn- anh Hà Minh T vắng mặt, không rõ lý do, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa ngày 28-11-2017, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần hai, anh Hà Minh T vẫn vắng mặt, không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Hà Minh T.
[2] Về yêu cầu kh i kiện của nguyên đơn - chị Hoàng Thị H:
Đối với yêu cầu gải quyết ly hôn: Chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T chung sống với nhau, đăng ký kết hôn ngày 03 tháng 5 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Tình trạng quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T đã đến mức căng thẳng, thực sự tình cảm, quan hệ vợ chồng, cuộc sống chung giữa hai bên không còn, thể hiện hai bên không còn sống chung, đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ sống chung của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình để xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T.
Đối với yêu cầu giải quyết việc nuôi con: Chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T có 02 con còn nhỏ chưa thành niên, hiện đang sống cùng anh T. Hai bên không có thỏa thuận, chị Hoàng Thị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Hà Tuấn A là chính đáng, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Chị Hoàng Thị H và anh T đều có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con nên cần áp dụng Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình giao cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi con Hà Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 2009; giao cho anh Hà Minh T trực tiếp nuôi con Hà Tuấn Đ, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012; không bên nào đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn cho bên nào.
Chị Hoàng Thị H, anh Hà Minh T có nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; có nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Về tài sản chung; Không có đương sự yêu cầu nên không giải quyết
[3] Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên, \
QUYẾT ĐỊNH
1. Về quan hệ hôn nhân:
Áp dụng các Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Hà Minh T.
2. Về quan hệ con chung: áp dụng các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân gia đình.
Xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao cho chị Hoàng Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Hà Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 2009; giao con Hà Tuấn Đ, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 cho anh Hà Minh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không bên nào đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho bên nào sau ly hôn. Chị Hoàng Thị H, anh Hà Minh T có nghĩa v, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; có nghĩa v, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001028 ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 10/2017/HNGĐ-ST ngày 28/11/2017 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 10/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về