Bản án 10/2017/DS-PT ngày 15/12/2017 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 10/2017/DS-PT NGÀY 15/12/2017 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 15 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2017/TLPT-DS, ngày 03 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án sơ thẩm số: 04/2017/DSST, ngày 04- 7-2017 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 11/2017/QĐ- PT ngày 28/11/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Khương Văn Đ (tức Khương Quang Đ), sinh năm 1947. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Khương Văn Đ1, sinh năm 1963.Có mặt.

Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963.Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Đ1: Ông Trần Văn Trường, luật sư công ty luật Công Minh, đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1.  Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1949. Vắng mặt.

2. Chị Khương Thị Đ2, sinh năm 1976 và chồng là Lưu Xuân L, sinh năm 1973. Vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1974; anh Khương Văn Đ3, sinh 1972 và cháu Khương Văn H2, sinh năm 1997 (Con anh Đ3 và chị H1). Vắng mặt. (Bà T, chị Đ2, anh L, chị H1, anh Đ3, cháu H2 đều ủy quyền cho ông Đ đại diện)

4. Anh Khương Văn Q, sinh năm 1986 (có mặt) và vợ là chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1992. Vắng mặt.

5. Anh Khương Văn N, sinh năm 1991 và vợ là chị Trần Thị L2, sinh năm 1993.Vắng mặt. (Bà H1, chị T1, anh N, chị L2 cùng ủy quyền cho ông Đ1 và anh Q đại diện).

Các đương sự cùng trú tại: Xóm G, thôn Đ, xã Đ, huyện T, tinh Bắc Ninh. Người kháng cáo: Ông Khương Văn Đ1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm và tài liệu trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:

Phía nguyên đơn là ông Khương Văn Đ trình bày: Bố đẻ ông là cụ Khương Văn Đ4 mất năm 1991, mẹ đẻ là Trần Thị C, mất năm 2000. Bố mẹ ông có 06 người con gồm: Khương Thị Đ5, sinh năm 1944; Khương Văn Đ, sinh năm 1947; Khương Thị K, sinh năm 1949; Khương Văn Đ6, sinh năm 1955; Khương Thị K1, sinh năm 1960 và Khương Văn Đ1, sinh năm 1963. Lúc sinh thời bố mẹ ông có 02 khối tài sản là nhà đất do các cụ bên nội và bên ngoại để lại nhưng liền kề nhau tại Xóm G, thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Khi bố mẹ ông còn sống, khoảng năm 1971 có chia nhà đất này cho các con trai, gia đình ông được chia 422m2 đất; ông Đ1 được chia 236m2. Còn ông Đ6 được bố mẹ mua cho một thửa đất ở khu khác cùng xóm diệntích khoảng 200m2. Đến năm 2001 cả ba thửa đất đều được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, thửa đất số 150, tờ bản đồ số 06, diện tích 422m2 đứng tên chủ hộ là Khương Văn Đ; Cạnh giáp ranh giữa thửa đất của ông và ông Đ1 dài 17,65m và có một cạnh hướng Nam giáp đường giao thông liên xã Tri Phương, Đ, P.

Năm 2005 gia đình ông xây nhà 03 tầng  trên phần đất giáp ranh với thửa đất nhà ông Đ1. Khi xây dựng ngôi nhà này ông đã xây cách ranh giới nhà ông Đ1 0,2m chạy dài 17,65m chứ không xây hết đất vì tại thời điểm ông xây dựng phần đất giáp danh phía nhà ông Đ1 có 01 nhà cấp 4 lợp ngói, nếu đào móng sát có thể ảnh hưởng đến ngôi nhà này, hơn nữa ông cũng muốn bớt lại phần đất này làm rãnh thoát nước.

Đến tháng 02 năm 2014 ông Đ1 phá ngôi nhà cấp 4 xây nhà kiên cố. Khi ông Đ1 đào móng nhà thấy phần móng đổ bê tông dưới lòng đất ngôi nhà ba tầng của ông chìa ra so với tường nhà 12cm, sâu 50cm. Ông Đ1 có gọi con trai ông là Khương Văn Đ4 sang và nói là móng nhà ông xây sang đất nhà ông Đ1. Ông Đ1 đã thuê thợ khoan cắt bê tông cắt bỏ phần móng bê tông rộng 12cm, cao 50cm, dài 11m. Khi phát hiện ông Đ1 bắt đầu phá bỏ phần móng này ông có sang yêu cầu không được phá nhưng ông Đ1 cho rằng phần bê tông này xây sang đất nhà ông Đ1 nên vẫn tiếp tục phá và ông Đ1 đã phá hết phần móng nhà này của gia đình ông. Sau khi bị ông Đ1 phá phần móng nhà hướng Đông, ngôi nhà ba tầng của gia đình ông bị nứt trần tầng hai và tầng ba.

Quá trình ông Đ1 phá móng ngôi nhà 03 tầng, ông đã trình báo Chính quyền. Chính quyền đã cử công an xã đến làm việc để tránh hai bên xảy ra xung đột. Sau đó UBND xã Đ đã giải quyết và có ra thông báo yêu cầu ông Đ1 tạm dừng xây dựng trên phần đất giáp ranh chờ giải quyết tranh chấp đất. Nhưng ông Đ1 vẫn tiến hành xây dựng nhà kiên cố và có xây tường cách tường nhà ông  0,08m.

Ông khẳng định ông Đ1 đã xây dựng ngôi nhà lấn sang phần đất của hộ ông rộng 0,12m dài 17m = 2,04m2 và do ông Đ1 phá móng nhà ông làm ảnh hưởng công trình xây dựng là ngôi nhà 03 tầng của gia đình ông. Nay ông yêu cầu ông Đ1, bà H1 phải trả lại ông phần đất 0,12m x 17m = 2,04m2 ông Đ1 đã xây tường ngôi nhà 02 tầng trên phần đất này và bồi thường tổn thất làm hư hỏng ngôi nhà 03 tầng số tiền là 200.000.000đ.

Ngày 26/7/2016, ông Đ có đơn xin rút phần yêu cầu ông Đ1, bà H1 phải bồi thường thiệt hại do hành vi phá hoại tài sản số tiền là 200.000.000đ.

Phía bị đơn là ông Khương Văn Đ1 cho rằng: Phần đất khoảng không giữa hai ngôi nhà là đất của ông Đ và thông qua kết quả đo đạc thực tế, ông Đ đã thay đổi yêu cầu: Buộc ông Đ1, bà H1 phải trả phần đất lấn chiếm giáp ranh hai hộ có diện tích 0,19m x 16,82m = 3,2m2.

Bị đơn là ông Khương Văn Đ1, Nguyễn Thị H trình bày: Ông xác nhận lời khai của ông Đ về lịch sử gia đình và nguồn gốc đất hộ ông Đ, ông Đ1 đang quản lý, sử dụng. Thửa đất số 151, diện tích 236m2 của ông có tứ cận: phía Đông giáp ngõ đi dài 15,4m; phía Tây giáp nhà ông Đ dài 17,6m; phía Nam giáp đường liên xã dài 14,5m; phía Bắc giáp nhà ông Nguyễn Văn C dài 15,3m. Thửa đất đã được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001 đứng tên chủ hộ là Khương Văn Đ1. Trong quá trình quản lý sử dụng năm 1994 vợ chồng ông đã phá ngôi nhà cấp 4 cũ, xây dựng một nhà trần hướng Đông Nam, diện tích 70m2. Năm 1996, vợ chồng ông xây 03 gian nhà bếp cấp 4 hướng Đông. Tường hậu của gian nhà bếp này nằm giáp với phần đất nhà ông Đ. Đến năm 2014 phá 03 gian bếp xây nhà02 tầng diện tích  60m2 một sàn. Khi ông đào móng ngôi nhà này giữa gia đình ông và gia đình ông Đ đã xảy ra tranh chấp. Ông Đ cho rằng gia đình ông đào móng, xây lấn sang phần đất nhà ông Đ. Khi ông đào móng nhà phần móng giáp với đất nhà ông Đ, ông thấy phía dưới phần bê tông đáy móng ngôi nhà ông Đ tràn sang đất nhà ông. Thấy vậy, ông có gọi anh Đ3 con trai ông Đ ra chỉ và nói biện pháp khắc phục là thuê thợ cắt thẳng phần bê tông này để xây móng sát với móng nhà ông Đ, vì anh Đ3 là người trực tiếp quản lý ngôi nhà này. Anh Đ3 đồng ý và nhờ ông gọi thợ. Vì vậy, ông đã gọi thợ để cắt phần bê tông theo sự chỉ đạo của anh Đ3. Ngay sau đó ông Đ nói rằng ông phá móng nhà ông Đ, ảnh hưởng đến công trình nhà ông Đ và khởi kiện ra xã Đ. Thực tế gia đình ông Đ xây ngôi nhà 03 tầng hướng Nam có cạnh hướng Đông giáp với đất nhà ông, ngôi nhà này gia đình ông Đ xây từ năm 2005. Thời điểm ông Đ làm nhà trên phần đất của gia đình ông có 03 gian bếp cấp bốn hướng Đông nhưng móng nhà cấp 4 nông, khi gia đình ông Đ xây nhà 03 tầng đào móng sâu hơn móng bếp nhà ông. Phần bê tông tràn sang nằm dưới móng bếp nhà ông. Vì vậy, gia đình ông Đ cho rằng móng nhà đến đâu thì đất đến đó nên nói rằng nhà ông xây lấn sang đất nhà ông Đ. Hai bên xảy ra tranh chấp, nên gia đình ông quyết định xây cách tường nhà ông Đ 15cm theo chiều rộng, không xây áp sát móng nhà ông Đ nữa. Công trình nhà ông đến nay đã hoàn thành, đi vào sử dụng. Phần đất giáp danh với nhà ông Đ mà gia đình ông bớt lại không xây dựng ông khẳng định là phần đất của gia đình ông. Vì chưa đo cụ thể, ông chỉ xác định được phần đất này rộng khoảng 15cm dài suốt phần ranh giới tiếp giáp với hộ ông Đ.

Phía ông Đ cho rằng gia đình ông lấn chiếm của gia đình ông Đ 0,12m x 17m= 2,04m2 đất, phần đất lấn chiếm này không kể khoảng không giữa hai nhà hiện nay. Ông khẳng định xây nhà không hề lấn sang đất của gia đình ông Đ. Khi ông Đ xây nhà năm 2005 đã xây tường áp sát bếp nhà ông. Vì vậy khi ông phá bếp xây nhà cũng xây áp sát tường ông Đ đã xây nhưng do ông Đ có ý kiến nên đã xây lùi lại 15cm là chưa đủ mà phải lùi thêm 12cm nữa. Đo đạc thực tế xác định được khoảng không giữa hai nhà hiện nay như sau: Hướng Nam rộng 0,09m; hướng Bắc rộng 0,11m; chiều dài Đông, Tây là 16,52m. Vì vậy, ông không đồng ý trả đất cho ông Đ.

Bà T vợ ông Đ; anh Đ3, chị H1 vợ anh Đ3; chị Đ2, anh L chồng chị Đ2 là con trai, con dâu, con gái, con rể của ông Đ, bà T cùng thống nhất với ý kiến của ông Đ.

Bà H1 vợ ông Đ1, anh Q, anh N con trai ông Đ1, bà H1, chị Thu vợ anh Q, chị L1 vợ anh N đã nhiều lần được Tòa thông báo tham gia tố tụng nhưng đều vắng mặt. Tòa án đã tiến hành ghi lời khai của các đương sự. Các đương sự đều thống nhất với ý kiến của ông Đ1.

Với nội dung trên, bản án sơ thẩm đã áp dụng khoản 6, khoản 9 Điều 26; Điều48; khoản 2 Điều 71; Điều 158; Điều 166; Điều 220; Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào các 166; Điều 175; Điều 579; Điều 580 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166; Điều 170; Điều 202; Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Khương Văn Đ về việc yêu cầu ông Khương Văn Đ1, bà Nguyễn Thị H bồi thường thiệt hại do hủy hoại tài sản của gia đình ông Khương Văn Đ số tiền 200.000.000đ.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Khương Văn Đ về việc buộc ông Khương Văn Đ1, bà Nguyễn Thị H phải trả lại phần diện tích đất lấn chiếm.

3. Xác nhận phần diện tích đất tranh chấp 2,7m2 thuộc quyền quản lý sử dụng của hộ ông Khương Văn Đ. Phần diện tích đất này nằm trong thửa đất số 150, tờ bản đồ 06, diện tích 422m2 tại Xóm G, Đ, T, Bắc Ninh của hộ ông Khương Văn Đ. Phần diện tích 2,7m2 đất bao gồm 1,9m2 đất giáp danh giữa ngôi nhà 03 tầng nằm trên thửa đất số 150, tòa bản đồ 06, diện tích 422m2 của hộ ông Khương Văn Đ và ngôi nhà 02 tầng nằm trên thửa đất số 151, tờ bản đồ 06, diện tích 236m2 của hộ ông Khương Văn Đ1 có tứ cận hướng Nam giáp đường liên xã rộng 0,09m, hướng Bắc giáp nhà ông Can rộng 0,11m, hướng Tây giáp ngôi nhà 03 tầng của hộ ông Đ và hướng Đông giáp ngôi nhà hai tầng của hộ ông Đ1 cùng dài 16,43m và 0,8m2 đất hộ ông Đ1 đã xây dựng một phần bức tường hướng Tây ngôi nhà hai tầng.

4. Giao phần đất diện tích 0,8m2  có tứ cận: Hướng Nam giáp đường liên xã rộng 0,06m; hướng Bắc giáp nhà ông Can rộng 0,04m; hướng Tây, Đông dài 16,43m, trên phần đất này gia đình ông Khương Văn Đ1 đã xây dựng một phần bức tường hướng Tây của ngôi nhà 02 tầng  cho hộ ông Khương Văn Đ1 tiếp tục quản lý sử dụng. Hộ ông Khương Văn Đ1 phải thanh toán cho ông Khương Văn Đ trị giá phần diện tích đất này là 4.800.000đ.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ thi hành án, án phí, chi phí thẩm định, định giá và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 17 tháng 7 năm 2017, ông Khương Văn Đ1 có đơn kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự pháp luật quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án tại phiên tòa các đương sự đã tự thỏa thuận, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309, điều 300 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra chứng cứ tại phiên toà; sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ cũng như lời trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay thì thấy:

Nguồn gốc thửa đất của ông Đ, ông Đ1 là được bố mẹ cho. Cả hai thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa đất của ông Đ là thửa đất 150, tờ bản đồ số 06, diện tích 422m2. Thửa đất này có tứ cận: Hướng Nam giáp đường liên xã rộng 14,3m, phía Bắc giáp nhà ông Hương dài 11,6m, phía Đông giáp nhà ông Can dài 14,05m, giáp nhà ông Đ1 dài 17,65m, hướng Tây giáp nhà ông Hồng dài 13,5m và 1,5m, và giáp nhà ông Luân dài 18,7m.

Thửa đất của ông Đ1 là thửa số 151, tờ bản đồ 06, diện tích 236m2. Thửa đất có tứ cận: Hướng Nam giáp đường liên xã rộng 14,5m, phía Bắc giáp nhà ông Can rộng 15,3m, phía Đông giáp ngõ đi dài 15,4m, phía Tây giáp nhà ông Đ dài 17,6m. Cả hai thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 19/10/2001

Năm 2010 cả hai hộ gia đình ông Đ và ông Đ1 bị thu hồi một phần đất để làm đường liên xã, căn cứ các tài liệu do UBND xã Đ cung cấp thì hộ ông Đ trước khi bị thu hồi cạnh hướng Nam có chiều dài 14,10m diện tích thu hồi 22,3 m2   Sau khi bị thu hồi hướng nam nhà ông Đ còn 14,06m. .

Hộ gia đình ông Đ1 trước khi bị thu hồi cạnh hướng Nam có chiều dài 14,28 không tính góc vát của ngõ đi 0,53m, diện tích thu hồi 8,2, m2   Sau khi bị thu hồi hướng Nam nhà ông Đ1 dài 13,16m. .

Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành đo đạc cả hai thửa đất bằng máy. Kết quả đo đạc cho thấy diện tích thực tế nhà ông Đ đang sử dụng là 404,9m2. Nếu so với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trừ đi diện tích đất bị thu hồi để làm đường thì diện tích hộ ông Đ thừa 5,2m2 đất, có cạnh hướng Nam dài 14,35m thiếu so với số liệu trong hồ sơ là 0,15m. Hộ ông Đ1 sử dụng 233,4m2 đất. Nếu so với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trừ đi diện tích đất bị thu hồi để làm đường thì diện tích hộ ông Đ1 thừa 11,2m2  đất. Như vậy, cả hai hộ ông Đ và ông Đ1 cạnh hướng Nam đều dài hơn so với sau khi thu hồi đất năm 2010 nếu lấy diện tích theo hồ sơ thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trừ đi phần diện tích đất thu hồi thì diện tích thực tế hiện nay hai nhà đều lớn hơn. Nhà ông Đ là 422m2 – 22,5m2  =399,7m2   thực tế là 409,9 m2

Nhà ông Đ1 là 236m2  – 8,2m2  = 227,8m2  thực tế là 233,4m2  Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào số đo bằng máy với số đo trong hồ sơ thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định ông Đ1 có lấn chiếm đất nhà ông Đ là không chính xác vì số liệu cạnh hướng Nam của hồ sơ thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nhà ông Đ là 14,3m; ông Đ1 14,5m) và số liệu cạnh hướng Nam khi đo bằng máy để thu hồi đất của hai thửa không trùng khớp (nhà ông Đ là 14,10m, nhà ông Đ1 14,28m); số liệu cạnh hướng Nam sau khi thu hồi đất để làm đường (nhà ông Đ 14,06m; nhà ông Đ1 13,16m) với số liệu cạnh hướng Nam hiện nay đo bằng máy là không trùng khớp (nhà ông Đ là 14,11m; nhà ông Đ1 14,35m).

Tại phiên tòa ông Đ cho rằng ông Đ1 lấn chiếm đất nhà ông, ông Đ1 cho rằng không lấn chiếm đất của ông Đ, các đương sự thừa nhận là anh em ruột thịt. sau khi nghe HĐXX phân tích hòa giải, ông Đ xác định nhà ông đã làm nhà 3 tầng kiên cố, nhà ông Đ1 cũng xác nhận đã làm hai tầng kiên cố, để bảo đảm tình đoàn kết anh em và giữ giá trị sử dụng của hai ngôi nhà, hai ông thỏa thuận giữ nguyên hiện trạng thực tế hiện nay giữa hai nhà có một phần diện tích đất là 1,9m2 giáp ranh giữa hai nhà sử dụng chung có tứ cận như sau: Hướng Nam giáp đường liên xã rộng 0,09m, hướng Bắc giáp nhà ông C rộng  0,11m, hướng Tây giáp nhà ông Đ và ông Đ1 dài 16,43 cả hai nhà không phá đi để xây lại nên ông Đ1 phải có trách nhiệm lợp mái tôn phía trên để không cho nước mưa ngấm vào tường, để đảm bảo giá trị tường hai nhà nước không ngấm vào ông Đ1 phải đổ phụt bê tông chống thấm vào khe giữa hai nhà diện tích 1,9m2. Xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội, nên cần sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Về áp dụng luật bản án sơ thẩm áp dụng bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết tranh chấp là không Chính xác, vì thời điểm thụ lý vụ án là 25/3/2014. Do vậy phải áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 nên cần sửa các điều luật áp dụng.

Về án phí: Ông Khương Văn Đ1 phải chịu án phí DSST và án phí DSPT, hoàn trả ông Khương Văn Đ tiền tạm ứng án phí DSST, số tiền tạm ứng án phí kháng cáo quá hạn cấp sơ thẩm đã thu cần trả lại ông Đ.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308, Điều 309,Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 256; Điều 265; Điều 599; Điều 600 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 166;  Điều 170; Điều 202; Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Sửa bản án sơ thẩm xử:

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Khương Văn Đ về việc yêu cầu ông Khương Văn Đ1, bà Nguyễn Thị H bồi thường thiệt hại do hủy hoại tài sản của gia đình ông Khương Văn Đ số tiền 200.000.000đ.

2. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: Công nhận thỏa thuận của ông Khương Văn Đ và ông Khương Văn Đ1 về việc sử dụng chung khe đất giữa hai gia đình ông Đ và ông Đ1 có diện tích là 1.9m2 hướng Nam giáp đường liên xã rộng 0,09m, hướng Bắc giáp nhà ông Can rộng  0,11m, hướng Tây giáp nhà ông Đ và ông Đ1 dài 16,43. Cả hai nhà không phá đi để xây lại nên ông Đ1 phải có trách nhiệm lợp mái tôn phía trên để không cho nước mưa ngấm vào tường, ông Đ1 phải đổ phụt bê tông chống thấm phần móng và tường giáp ranh hai nhà.

3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc bằng máy: Ông Đ1, bà H1 phải chịu 8.310.000đ toàn bộ chí phí. Xác nhận ông Đ đã nộp số tiền tạm ứng chi phí   là 8.310.000đ. Ông Đ1, bà H1 phải có nghĩa vụ trả lại số tiền 8.310.000đ cho ông Đ.

4. Về án phí: Ông Khương Văn Đ1, bà Nguyễn Thị H phải chịu 240.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Ông Khương Văn Đ1 phải chịu 300.000đ án phí DSPT. Xác nhận ông Đ1 đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tại biên lai thu số AA/2015/0000080, ngày 19/7/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Hoàn trả ông Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.000.000đ tại biên lai thu số AA/2012/01735 ngày 25/3/2014 và 200.000đ tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp tại biên lai thu số: AA/2012/02345 ngày 29/8/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2017/DS-PT ngày 15/12/2017 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:10/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về