TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 101/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị B; địa chỉ: Thôn NH, xã AH, huyện AD, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đại P; địa chỉ đăng ký thường trú: Thôn 6, xã HĐ, huyện TN, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thị B trình bày: Chị và anh Nguyễn Đại P kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 2004, có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo P tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AH, huyện AD, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 6 năm 2004. Sau khi cười vợ chồng về chung sống thôn 6, xã HĐ, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Do mâu thuẫn nên chị B đã về nhà bố mẹ đẻ tại thôn NH, xã AH, huyện AD, thành phố Hải Phòng sinh sống từ đó đến nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nguyên nhân do anh Nguyễn Đại P không quan tâm và không có trách nhiệm với vợ con và sa vào tệ nạn xã hội nên phải đi chấp hành án trong trại giam từ năm 2007. Chị Bảy nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Đại P.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đại P có 01 con chung tên Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2003, từ khi ly thân đến nay con chung ở với ông bà nội nhưng nay ly hôn xin được nuôi con, hơn nữa anh Nguyễn Đại P đang phải đi chấp hành án nên chị B đề nghị được trực tiếp nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con để chị và anh Nguyễn Đại P tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Vũ Thị B trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến và đề nghị của bị đơn là anh Nguyễn Đại P: Anh P thống nhất với trình bày của chị B về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng hòa thuận đến khi anh đi chấp hành án phạt tù thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng xa cách nhau. Nay, chị B xin ly hôn, anh cũng đồng ý. Về con chung: Thống nhất với trình bày của chị B vợ chồng có 01 con chung. Trường hợp ly hôn, do con chung tự quyết định ở với bố hay với mẹ. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, để anh và chị B tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đều đã chấp hành đúng quy định của pháp luật và có đơn xin xét xử vắng mặt. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị B được ly hôn anh Nguyễn Đại P. Về con chung: Giao con chung tên: Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2003 cho chị Vũ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Chị Vũ Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Thị B; Bản sao giấy khai sinh mang tên Nguyễn Đình Huy; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã HĐ, huyện TN, thành phố Hải Phòng; Bản tự khai của chị Vũ Thị B; Biên bản ghi ý kiến của anh Nguyễn Đại P.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AH, huyện AD, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 41, ngày 01 tháng 6 năm 2004 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh P sa vào tệ nạn xã hội phải đi phải chấp hành án trong trại giam nên vợ chồng xa cách nhau, tình cảm phai nhạt và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay để ổn định cuộc sống chị B đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh P. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã HĐ thể hiện, mâu thuẫn giữa chị B và anh P phát sinh từ cuối năm 2007 do anh P vi phạm pháp luật nên chị B đã về nhà bố mẹ đẻ chị B sinh sống từ đó đến nay. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh P đã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ được nữa, chị B xin ly hôn anh P cũng đồng ý ly hôn. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị B, cho chị Vũ Thị B được ly hôn anh Nguyễn Đại P.
[3]. Về con chung: Chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P có 01 con chung tên: Nguyễn Đinh Huy, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2003, khi ly hôn chị Vũ Thị B có nguyện vọng được nuôi con, còn anh P hiện đang phải chấp hành án không có điều kiện để nuôi con và để con chung tự quyết định muốn ở với ai. Tại Đơn nguyện vọng của con ngày 28 tháng 5 năm 2021 thể hiện con chung có nguyện muốn ở với chị B. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh thể hiện chị B có đủ điều kiện nuôi con và đảm bảo tốt về mọi mặt, còn anh P đang chấp hành án trong trại giam nên không có đủ điện kiện nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao các con chung tên: Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2003 cho chị Vũ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P đều trình bày để chị B và anh P tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4]. Về tài sản chung:
Chị Vũ Thị B và anh Nguyễn Đại P đều trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. [5] Về án phí:
Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Vũ Thị B phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị B được ly hôn anh Nguyễn Đại P.
2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2003 cho chị Vũ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Vũ Thị B phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án 0015819, ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Thị B đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 101/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn và con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 101/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về