Bản án 101/2021/HNGĐ-ST ngày 01/07/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH H

BẢN ÁN 101/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 98/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 123/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11/6/2021; Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 30/2021/TB-TA ngày 18 tháng 6 năm 2021 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L, sinh ngày 09/3/1982.

Địa chỉ nơi cư trú: Thôn Bùng D, xã Tuấn H, huyện KT tỉnh H.

- Bị đơn: Anh JEONG OH J, sinh ngày 28/4/1969. Hộ chiếu số SM0152603; Quốc tịch: Hàn Quốc.

Địa chỉ thường trú: # 771 Hwajeop – ri, Byeollae – myeon, Namyangju – si, Gyeonggi – do, Hàn Quốc.

(Chị L có đơn xin xử vắng mặt, vắng mặt anh JEONG OH J).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Vũ Thị L trình bầy:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh JEONG OH J được tự do tìm hiểu vào năm 2011 được khoảng 2 tháng thì cưới, sau đó chị sang Hàn Quốc đăng ký kết hôn vào ngày 28/09/2011 và đã ghi chú việc kết hôn tại Sở tư pháp tỉnh H vào ngày 28/10/2011. Sau khi kết hôn chị sống cùng gia đình nhà chồng tại Hàn Quốc. Trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng ngôn ngữ, văn hóa, anh JEONG OH J đối xử không tốt và thường xuyên đánh đập chị khiến cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, căng thẳng. Do không chịu đựng được cuộc sống như vậy nên khoảng tháng 2/2012 chị bỏ về Việt Nam sống, khi chị bỏ về anh JEONG OH J cũng không níu kéo chị ở lại. Từ đó đến nay vợ chồng không liên lạc, không quan tâm đến nhau, mỗi người sống một nơi. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh JEONG OH J.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng không có con chung. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.

Ngày 08/6/2020, Toà án nhân dân (TAND) tỉnh H tiến hành ủy thác tư pháp cho Cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc để tống đạt văn bản tố tụng, lấy lời khai đối với anh JEONG OH J liên quan đến yêu cầu khởi kiện của Chị L thông qua Bộ Tư Pháp Việt Nam.

Ngày 07/7/2020, Tòa án nhận được công văn số 1463/BTP-PLQT ngày 07/7/2020 của Bộ tư pháp về việc trả lại hồ sơ ủy thác tư pháp do không thể gửi cho Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19.

Ngày 30/10/2020, Tòa án nhân dân tỉnh H tiếp tục gửi công văn ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc để tống đạt văn bản tố tụng, lấy lời khai đối với anh JEONG OH J liên quan đến yêu cầu khởi kiện của Chị L thông qua Bộ Tư Pháp Việt Nam.

Ngày 29/4/2021, Tòa án nhận được kết quả ủy thác tư pháp. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc không thực hiện được ủy thác tư pháp trên do địa chỉ không chính xác.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/5/2021, Chị L trình bày chị chỉ biết địa chỉ của anh JEONG OH J như chị đã cung cấp cho Tòa án. Chị và gia đình không thể liên hệ với anh JEONG OH J nên không thể cung cấp địa chỉ mới hoặc địa chỉ khác của anh JEONG OH J cho Tòa án. Chị đề nghị Tòa án thông báo trên cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Căn cứ điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), ngày 20/5/2021, Tòa án đã có văn bản đề nghị Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc (ĐSQ) đăng toàn bộ văn bản tố tụng liên quan đến yêu cầu khởi kiện của Chị L đối với anh JEONG OH J trên Cổng thông tin điện tử của ĐSQ. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành đăng trên cổng thông tin điện tử của Tòa án.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa. Về nội dung: Đã phân tích, đánh giá yêu cầu của Nguyên đơn, căn cứ tài liệu có trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, 477 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí xử:

- Về quan hệ hôn nhân : Xử cho Chị L ly hôn anh JEONG OH J .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử (viết tắt: HĐXX) nhận đinh:

[1]. Về tố tụng: Do anh JEONG OH J (Bị đơn) là người có quốc tịch Hàn Quốc nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh theo quy định tại Điều 35, 37 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc để tống đạt văn bản tố tụng, lấy lời khai đối với anh JEONG OH J . Do cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc không thực hiện được ủy thác tư pháp nên Tòa án đã có công văn đề nghị Đại sứ quán (ĐSQ) Việt Nam tại Hàn Quốc đăng toàn bộ văn bản tố tụng liên quan đến yêu cầu khởi kiện của Chị L đối với anh JEONG OH J trên cổng thông tin điện tử của ĐSQ; đồng thời Tòa án cũng tiến hành đăng trên cổng thông tin điện tử của Tòa án. Căn cứ điểm c Khoản 6 Điều 477 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh JEONG OH J. Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên HĐXX áp dụng Điều 238 BLTTDS xét xử vắng mặt Chị L.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, Chị L và anh JEONG OH J kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại khu Jongno, thành phố Seoul, Hàn Quốc ngày 28/9/2011, ngày 07/10/2011 Đại sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội cấp giấy chứng nhận không cản trở kết hôn số 11-2459, ngày 28/10/2021 Sở tư pháp tỉnh H đã cấp giấy xác nhận về việc đã ghi chú vào sổ các việc hộ tịch đã đăng ký trước cơ quan có thẩm quyền của nước người đối với chị Vũ Thị L và anh JEONG OH J như vậy hôn nhân giữa chị Vũ Thị L và anh JEONG OH J là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng ngôn ngữ, văn hóa, anh JEONG OH J đối xử không tốt và thường xuyên đánh đập chị khiến cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, căng thẳng. Chị L đã về nước từ năm 2012. Xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, vợ chồng không quan tâm đến nhau và có căn cứ xác định mâu thuẫn của anh chị là trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận cho Chị L được ly hôn với anh JEONG OH J .

- Về quan hệ con chung: Không có.

- Về tài sản chung và nợ chung : Chị L không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

- Về án phí, chi phí thực hiện ủy thác tư pháp: Ghi nhận sự tự nguyện của Chị L chịu toàn bộ theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, 150, 153, 228, 477, 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí. Xử:

1. Chị Vũ Thị L ly hôn anh JEONG OH J .

2. Về con chung: Không có.

3. Về án phí, chi phí thực hiện ủy thác tư pháp: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Vũ Thị L chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đối trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002133 ngày 07/5/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh H; lệ phí ủy thác tư pháp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đối trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002686 ngày 28/5/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh H và chi phí dịch thuật, công chứng, gửi văn bản sang nước ngoài qua đường bưu điện, Chị L đã thực hiện xong.

Báo đương sự có mặt tại Việt Nam vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định. Đương sự cư trú ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2021/HNGĐ-ST ngày 01/07/2021 về ly hôn

Số hiệu:101/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về