Bản án 101/2020/HSST ngày 22/10/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 101/2020/HSST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 106/2020/TLST-HS ngày 08/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2020/QĐXXST-HS ngày 09/10/2020 đối với bị cáo:

Lê Văn C, sinh năm 1982 tại thành phố L, tỉnh An Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 28, khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T và bà Ngô Thị M (chết); Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Dương T, sinh năm 1990 và có 01 con sinh năm 2008. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2020 cho đến nay và bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Trần Thanh H, sinh năm 1980. Địa chỉ: Số 521, khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Số 738/28, khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

2. Ông Phan Văn S, sinh năm 1945. Địa chỉ: Số 734/28, khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 ngày 17/01/2009, Lê Văn C và Nguyễn Văn H đến quán nước của chị Huỳnh Thị Kim L tại số 628, tổ 26, khóm B, phường Đ, thành phố L thấy anh Trần Thanh H đang ngồi uống cà phê với anh Đỗ Văn T. Bực tức việc trước đây bị anh H chửi mắng nên C đến dùng tay tát vào mặt anh H 01 cái thì anh H bỏ chạy, C lấy 02 ly thủy tinh có quai, 01 bình trà bằng nhôm trên bàn chạy theo ném về phía anh H nhưng chỉ có bình trà trúng vào lưng anh H. Lúc này, H cũng chạy theo phía sau C và anh H. Thấy vậy, anh Lê Văn T (em ruột của C) và anh Đoàn Nguyên A chạy theo để can ngăn. Khi đến nhà của ông Phan Văn S tại số 734, tổ 28 khóm B, phường Đ thì anh H chạy vào nhà bếp lấy 01 con dao cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 13cm rồi quay trở ra. Cùng lúc C lấy 01 thanh gỗ dài 1,5m, ngang 8cm, dày 1,5 cm, trên đầu có gắn một thanh gỗ hình trụ dài khoảng 50cm cặp vách nhà ông S đánh trúng mắt trái của anh H, thanh gỗ hình trụ bị gãy một đoạn dài khoảng 8,5cm ghăm vào mắt trái anh H gây thương tích. Anh T đến can ngăn, giật thanh gỗ trong tay C ném xuống đất, rồi kéo C về nhà. Anh H được ông S và anh A đưa đến bệnh viện cấp cứu. Khi cả ba đi bộ qua nhà C thì anh H bị C cầm 01 thanh gỗ dài 0,5m đánh vào lưng 01 cái thì được anh A căn ngăn đẩy C ngã xuống rạch, C lên bờ chạy đến định đánh H thì được anh T can ngăn. Sau đó, anh A đưa anh H đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu và chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy tại thành phố Hồ Chí Minh điều trị thương tích đến ngày 23/01/2009 ra viện.

Ngày 20/01/2009, C đến Công an phường Đ đầu thú và bỏ trốn khỏi nơi cư trú nên bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L ra Quyết định truy nã. Đến ngày 15/6/2020, C đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đầu thú.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 thanh gỗ dài 1,5m ngang 8cm, dày 1,5cm; 01 cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 13cm, do ông Phan Văn Sang giao nộp; Mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh do chị Huỳnh Thị Kim L giao nộp; 01 đoạn gỗ dài 8,5cm do chị Trần Thu H (chị ruột của Hầu) giao nộp.

Biên bản giám định pháp y số 108/BBPY ngày 03/04/2009 của Tổ chức giám định pháp y và pháp y tâm thần tỉnh An Giang (nay là Trung tâm pháp y tỉnh An Giang) đối với Trần Thanh H, xác định kết quả khám nghiệm hiện tại: Vết thương phần mềm thái dương phải sẹo 04 x 0,2cm, tỷ lệ thương tật 01%, không gây cố tật, không ảnh hưởng thẩm mỹ; Dị vật hốc mắt trái, đứt cơ vận nhãn, đứt dây thần kinh thị giác, thị lực mắt trái: ST (-), tỷ lệ thương tật: 41%. Kết luận: Tỷ lệ thương tật chung là 42%.

Cáo trạng số: 107/CT-VKS ngày 30/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, truy tố Lê Văn C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 04 năm đến 04 năm 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tiền bồi thường 13.000.000đ và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về dân sự nên đề nghị không xét đến.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 01 thanh gỗ dài 1,5m, ngang 8cm, dày 1,5cm; 01 con dao cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 13cm; Mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh; 01 đoạn gỗ dài 8,5cm.

Bị cáo Lê Văn C khai nhận: Trước đó bị cáo có bắt được người nghi là trộm cắp tài sản, trong khi mọi người đang xem thì Trần Thanh H không biết từ đâu chạy đến đánh người trộm cắp nên bị cáo căn ngăn không cho đánh thì H chửi mắng bị cáo, làm bị cáo uất ức trong lòng. Ngày 17/01/2009, người bạn cùng xóm tên là H rủ bị cáo tìm đánh anh H thì bị cáo đồng ý, H đi xe đạp, còn bị cáo đi bộ đến quán của bà L thì gặp H đang ngồi uống nước, bị cáo liền dùng tay đánh vào mặt của anh H và dùng ly thủy tinh, bình trà ném khi anh H bỏ chạy. Bị cáo rượt đuổi theo đến nhà ông S thì lấy cây đánh vào vùng mặt của anh H gây thương tích ở mắt trái thì được mọi người căn ngăn đưa bị cáo về nhà. Tiếp đó, khi thấy anh H đi ngang qua nhà thì bị cáo tiếp tục dùng tay đánh vào lưng anh H thì bị anh A xô ngã xuống kênh, bị cáo định tiếp tục đánh anh H nhưng được Lê Văn T (em trai bị cáo) can ngăn. Sau đó, khi biết anh H bị thương tích ở mắt trái, bị cáo có đến đầu thú tại Công an phường B nhưng do sợ trách nhiệm hình sự nên bị cáo bỏ trốn đến tháng 6/2020 ra đầu thú như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về dân sự, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh H 13.000.000đ. Đối với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, bị cáo không ý kiến tranh luận. Bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi gây thương tích cho bị hại, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt bị cáo.

Bị hại Trần Thanh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra, anh Hầu trình bày việc bị cáo Chơn gây thương tích cho anh như nội dung Cáo trạng đã nêu. Ngày 17/01/2009, bị cáo C chỉ gây thương tích cho anh H ở mắt trái, còn ở thái dương phải bị thương tích lúc nào anh H không nhớ. Đến ngày 20/7/2020, anh H nhận 13.000.000 đồng từ gia đình Lê Văn C bồi thường thiệt hại nên anh yêu cầu miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo C (BL 72 - 86).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra ông Lê Văn T trình bày: Ngày 17/01/2009, anh T thấy Lê Văn C (anh trai của T) rượt đánh anh H nên anh chạy theo căn ngăn. Khi đến nhà ông Phan Văn S, H vào bếp lấy 01 con dao, còn C lấy cây gỗ dài 1,5m trước nhà ông S đánh vào vùng mắt trái của H thì anh chạy đến căn ngăn và đưa C về nhà. Anh T đại diện gia đình bồi thường cho anh H 13.000.000đ (BL 85,160 - 166).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra ông Phan Văn S trình bày: Ngày 17/01/2009, ông S thấy C cầm cây gỗ dài khoảng 1,5m đứng trước cửa nhà ông. Sau đó, ông S thấy H nằm trên giường nhà ông trong tình trạng bị thương ở mắt trái. Riêng, cây dao H cầm trên tay là lấy từ dưới bếp nhà ông (BL 114 - 152).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

[2] Về thủ tục tố tụng

Trong vụ án này, quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khởi tố bị cáo cùng ngày 04/6/2009. Quá trình điều tra, bị cáo bỏ trốn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố L ra Quyết định truy nã, tạm đình chỉ điều tra. Đến ngày 15/6/2020, bị cáo ra đầu thú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự, quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can đối với Lê Văn C về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, nay là Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng có lợi cho bị cáo so với khung hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát không ý kiến về việc vắng mặt của những người này và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy quá trình điều tra, Cơ quan điều tra - Công an thành phố L đã tiến hành lấy lời khai, làm rõ các tình tiết trong vụ án, bị hại đã nhận tiền bồi thường nên việc vắng của những người này tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự

Bị cáo Lê Văn C và bị hại Trần Thanh H có mâu thuẫn từ trước. Ngày 17/01/2009, bị cáo tìm và gặp bị hại tại quán bà Huỳnh Thị Kim L, bị cáo dùng tay đánh vào mặt bị H và tiếp tục dùng ly thủy tinh trên bàn ném về phía bị hại và rượt đuổi bị hại đến nhà ông Phan Văn S, bị cáo lấy 01 thanh gỗ dài 1,5m, ngang 8cm, dày 1,5cm đánh vào vùng mặt anh H, làm thanh gỗ bị gãy một đoạn dài 8,5cm ghăm vào mắt trái của anh H gây thương tích 41%. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với bệnh án của bị hại và biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Căn cứ biên bản giám định pháp y số 108/BBPY ngày 03/04/2009 của Tổ chức giám định pháp y và pháp y tâm thần tỉnh An Giang (nay là Trung tâm pháp y tỉnh An Giang) đối với Trần Thanh H, xác định kết quả khám nghiệm hiện tại: Dị vật hốc mắt trái, đứt cơ vận nhãn, đứt dây thần kinh thị giác, thị lực mắt trái: ST (-), tỷ lệ thương tật: 41%. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Lê Văn C theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật. Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Riêng vết thương phần mềm thái dương phải của anh Trần Thanh H, sẹo 04 x 0,2cm, tỷ lệ thương tật 01%, không gây cố tật, không ảnh hưởng thẩm mỹ. Anh H xác định không phải do bị cáo C gây ra nên không có căn cứ để quy kết trách nhiệm hình sự C về tỷ lệ thương tích này.

Đối với việc bị cáo C khai người tên H rủ C đánh anh H. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không biết H đang ở đâu. Ngoài lời khai của C không còn chứng cứ khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội

Tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, có sức khỏe mới tạo được các giá trị vật chất, tinh thần để phục cho cuộc sống của mỗi người và xã hội nên pháp luật xem đây là quyền nhân thân bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm đến đều bị nghiêm trị.

Bị cáo là người đã trưởng thành, khỏe mạnh, nhận thức được hành vi của bản thân. Mặc dù, giữa bị cáo và bị hại có mâu thuẫn với nhau từ trước nhưng cả hai sinh sống cùng địa phương, lẽ ra bị cáo phải tìm cách dĩ hòa di quý hoặc tìm cách giải quyết mâu thuẫn cho phù hợp nhưng ngược lại, bị cáo thích sử dụng bạo lực, muốn thể hiện bản lĩnh nên đã dùng thanh gỗ được xem là hung khí nguy hiểm gây thương tích 41% ở mắt trái của bị hại, trong khi bị hại không đánh trả và bỏ chạy, bị cáo vẫn cố chấp để gây thương tích đến cùng trên cơ thể bị hại, điều này thể hiện tính côn đồ, xem thường pháp luật, trực tiếp xâm hại đến quyền nhân thân, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống bình thường của xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người dân biết tôn trọng pháp luật, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Về nhân thân: Bị có nhân thân tốt, không tiền án tiền sự. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi phạm tội và bỏ trốn, gây khó khăn cho các Cơ quan tiến tố tụng trọng việc điều tra, truy tố. Điều này thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật đối với hành vi phạm tội do chính bị cáo trực tiếp gây ra.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiết tình tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo có tình tiết tăng nặng định khung thuộc trường hợp “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%” được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự theo đề nghị truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thuộc trường hợp người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người phạm tội đầu thú và bị hại có yêu cầu miễn hình phạt cho bị cáo. Từ các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, đại diện Viện kiểm sát tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự

Bị hại Trần Thanh H đã nhận tiền bồi thường 13.000.000đ từ anh Lê Văn T (em ruột bị cáo) nên anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại thêm về dân sự nên không xét đến.

Anh Lê Văn T (em ruột bị cáo) bồi thường cho bị hại số tiền nêu trên. Anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường lại số tiền này nên không xét đến.

[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra - Công an thành phố L có chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/10/2020 gồm: 01 thanh gỗ dài 1,5m, ngang 8cm, dày 1,5cm; 01 con dao cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 13cm; Nhiều mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh; 01 đoạn gỗ dài 8,5cm. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng dùng vào việc phạm tội là có căn cứ nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; Điều 47, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Điều 106, Điều 136, Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị hại Trần Thanh H; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Văn T, Phan Văn S.

Tuyên xử:

[1] Về hình phạt

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn C 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2020

[2] Xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác

Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh gỗ dài 1,5m, ngang 8cm, dày 1,5cm; 01 con dao cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại dài 13cm; Nhiều mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh; 01 đoạn gỗ dài 8,5cm. (Xử lý vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/10/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố L).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2020/HSST ngày 22/10/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:101/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về