Bản án 101/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 101/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

ÔN MINH T1 sinh ngày 16 tháng 10 năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký thường trú: 10/28/2 Đường Th, phường HT, quận TP, TP.Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: thợ cửa sắt; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; tên cha: Ôn PT, sinh năm 1965, tên mẹ: Trần Thị BN, sinh năm 1968; vợ, con: không; tiền án: Ngày 19/08/2014, bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 01 năm 06 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tù xong ngày 30/07/2015, nộp án phí ngày 26/11/2014, chưa bồi thường cho bị hại như bản án đã tuyên, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 12/02/2009 bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 01 năm tù tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành án tù xong ngày 30/04/2010, nộp án phí ngày 20/04/2009; tạm giữ, tạm giam: 25/4/2019 (có mặt)

NGUYỄN VĂN T2 sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký thường trú: 10/18/1 Đường Th, phường HT, quận TP, TP.Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; tên cha: Nguyễn Văn N, sinh năm 1966, tên mẹ: Nguyễn Thị T3, sinh năm 1966; vợ, con: không; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 18/09/2008 bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 03 năm tù tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành án tù xong ngày 30/08/2010, Ngày 09/05/2011, bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 04 năm tù tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành án tù xong ngày 24/12/2014, Ngày 27/08/2015, bị Tòa án nhân dân quận BT áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 02 năm, chấp hành xong ngày 19/07/2017; tạm giữ, tạm giam: 25/4/2019 (có mặt)

- Bị hại:

Anh Trịnh Văn VL, sinh năm 1966 (vắng mặt)

Nơi đăng ký thường trú: 33 Đường A, phường X, quận T, TP.Hồ Chí Minh

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Ôn Tất Phổ, sinh năm 1965 (vắng mặt)

Nơi đăng ký thường trú: 10/28/2 Đường Th, phường HT, quận TP, TP.Hồ Chí Minh

Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1966 (vắng mặt)

Nơi đăng ký thường trú: 10/18/1 Đường Th, phường HT, quận TP, TP.Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 25/04/2019, do có bàn bạc từ trước, Ôn Minh T1 điều khiển xe máy biển số 62H7-7105 chở Nguyễn Văn T2 đi lòng vòng trộm cắp tài sản. Khi đến đối diện nhà số 07 Đường HT, phường F, quận T, cả 02 phát hiện trước nhà trên có để xe máy biển số 55P8 – 5523 của Trịnh Anh VL cắm sẵn chìa khóa, không ai trông coi. T1 chạy vòng vòng tìm chỗ thuận tiện rồi dừng xe cách xe máy trên vài mét. Còn T2 đi bộ đến xe máy trên, leo lên xe, nổ máy, lùi lại phía sau chuẩn bị bỏ chạy thì bị anh Nguyễn Văn Mơ phát hiện. Anh Mơ tri hô thì T2 bỏ lại xe máy trên và lên xe của T1 chờ sẵn rồi tăng ga bỏ chạy. Lúc này có Tổ hình sự đặc nhiệm Công an quận Tân Bình truy đuổi liên tục. Khi đến ngã ba Đường HL– VT thì va chạm vào người dân, té ngã, cả hai chạy bộ được một đoạn thì bị bắt giữ giao Công an phường F, quận T.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Tân Bình, Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Tân Bình, bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 141/HĐĐGTS-TTHS ngày 09/07/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận T kết luận xe máy bị chiếm đoạt trị giá 12.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe máy biển số 55P8 – 5523. Qua xác minh, xe máy trên của anh Trịnh Anh VL giao cho nhân viên sử dụng. Ngày 25/04/2019, anh VL giao cho anh Mơ sử dụng và để trước căn nhà trên, đã trả bị hại.

Thu giữ của T1:

- 01 xe máy biển số 62H7-7105. Qua xác minh xác định: chủ sở hữu xe trên là bà Đặng Thanh Y, hiện nay bà Y đã bỏ đi đâu không rõ. Còn Ôn Minh T1 khai xe máy trên là của cha ruột là ông Ôn PT để trong nhà, T1 tự ý lấy xe máy trên đi trộm cắp tài sản. Ông Ôn PT trình bày mua xe máy trên từ bà Y, không sang tên. Ông Tất để xe máy trong nhà thì T1 tự ý lấy xe đi trộm cắp tài sản, đã nhập kho vật chứng.

- 01 điện thoại di động, 01 bộ quần áo, đã nhập kho vật chứng. Thu giữ của T2:

- 01 điện thoại di động, qua xác minh được biết là của ông Nguyễn Văn N, cha ruột T2, đã trả ông N.

- 01 bộ quần áo, 02 đoản kim loại, 01 chìa khóa xe đã nhập kho vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 01 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và khai giống lời khai tại cơ quan điều tra.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đồng thời đề nghị xử phạt bị cáo T1 mức án từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù, xử phạt Nguyễn Văn T2 từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ quá trình điều tra, truy tố, diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của các bị cáo, bị hại, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án thì Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2 đã có hành vi lét lút lấy xe máy biển số 55P8 – 5523 trị giá 12.000.000 đồng của anh Trịnh Anh VL vào khoảng 14 giờ ngày 25/04/2019 tại trước nhà đối diện nhà số 07 Đường HT, phường F, quận T, TP.Hồ Chí Minh.

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội do lỗi cố ý nên xét thấy đã đủ cơ sở pháp lý để kết luận các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong vụ án này, bị cáo T1 là người rủ rê bị cáo T2 cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T1 nặng hơn bị cáo T2.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo T1 ngày 19/08/2014, bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 01 năm 06 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tù xong ngày 30/07/2015 chưa được xóa án tích nhưng lại phạm tôi do lỗi cố ý là thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại bị hại nên cần áp dụng tình giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 01 xe máy biển số 55P8 – 5523 thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Anh VL, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tân Bình đã trả lại cho bị hại có cơ sở và đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 01 xe máy biển số 62H7-7105, số khung: RLHHC09083Y-342590, số máy: HC09E-0342644. Qua xác minh xác định: chủ sở hữu xe trên là bà Đặng Thanh Y, hiện nay bà Y đã bỏ đi đâu không rõ. Còn Ôn Minh T1 khai xe máy trên là của cha ruột là ông Ôn PT để trong nhà, T1 tự ý lấy xe máy trên đi trộm cắp tài sản. Ông Ôn PT trình bày mua xe máy trên từ bà Y, không sang tên. Ông Tất để xe máy trong nhà thì T1 tự ý lấy xe đi trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ xe vẫn chưa có kết quả nên tiếp tục giao Cơ quan Thi hành án dân sự đăng báo tìm kiế chủ sở hữu trong một thời gian nhất định nếu hết thời hạn mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia đã qua sử dụng, có số imei: 355812098345654-355813098345652, bên trong có 01 simcard có số 8401-1705- 3313-8413-01 là công cụ T1 dùng liên lạc với T2 để rủ đi trộm cắp tài sản nên tịch thu, nộp nhân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại hiệu Mobell đã qua sử dụng, qua xác minh được biết là của ông Nguyễn Văn N, cha ruột T2. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tân Bình đã trả lại cho ông N có cơ sở và đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 01 đoản kim loại dùng để bẻ khóa xe hình chữ T; 01 đoản kim loại dùng để bẻ khóa xe hình trụ có một đầu nhọn dẹt; 01 chìa khoá xe máy; 01 áo khoác màu đen; 01 quần jean dài màu xanh dương; 01 áo thun trơn màu xanh da trời; 01 quần jean dài màu xanh dương; 01 áo sơ mi dài tay sọc caro màu đen là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Xét bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 106; Điều 268, Điều 292, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

1. Tuyên bố bị cáo Ôn Minh T1 và Nguyễn Văn T2 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: ÔN MINH T1 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính tù ngày 25/4/2019 Xử phạt: NGUYỄN VĂN T2 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính tù ngày 25/4/2019

2. Về vật chứng:

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia đã qua sử dụng, có số imei: 355812098345654-355813098345652, bên trong có 01 simcard có số 8401-1705-3313-8413-01(tình trạng theo phiếu nhập kho vật chứng số 117/PNK ngày 20/6/2019 của Công an quận Tân Bình).

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản kim loại dùng để bẻ khóa xe hình chữ T; 01 đoản kim loại dùng để bẻ khóa xe hình trụ có một đầu nhọn dẹt; 01 chìa khoá xe máy; 01 áo khoác màu đen; 01 quần jean dài màu xanh dương; 01 áo thun trơn màu xanh da trời; 01 quần jean dài màu xanh dương; 01 áo sơ mi dài tay sọc caro màu đen (tình trạng theo phiếu nhập kho vật chứng số 117/PNK ngày 20/6/2019 của Công an quận Tân Bình) Giao Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp của 01 xe máy biển số 62H7-7105, số khung: RLHHC09083Y-342590, số máy: HC09E-0342644 (tình trạng theo phiếu nhập kho vật chứng số 117/PNK ngày 20/6/2019 của Công an quận Tân Bình), trong thời hạn 12 tháng, nếu quá hạn vẫn không tìm được chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe trên thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

3. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại điều 26 Luật Thi hành án được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:101/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về