Bản án 101/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 101/2019/HS-PT NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 42/TLPT-HS ngày 14 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: Đinh Thị N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo: Đinh Thị N, tên gọi khác: X; sinh ngày: 01/01/1965 tại Quảng Ngãi; trú tại: tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: H’re; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Đ (chết) và bà Đinh Thị Đ; chồng: Đinh B (chết); con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1983, con nhỏ nhất sinh năm 1988. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị Thanh T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị H - Sinh năm: 1956. Trú tại: thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

2. Ông Bùi Đ1 - Sinh năm: 1971. Trú tại: thôn H, xã S, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

3. Ông Ngô Phi H - Sinh năm: 1953. Trú tại: Thôn H, xã S, huyện S, tính Quảng Ngãi. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2015, Đinh Thị N được bầu làm Tổ trưởng Tổ liên kết Hội phụ nữ thôn Đ, xã S, là người đại diện cho Tổ thỏa thuận và ký hợp đồng dịch vụ tín dụng với ngân hàng N huyện S (ngân hàng N S) và Ngân hàng Chính sách xã hội huyện S (ngân hàng CSXH S). Theo hợp đồng với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện S thì nhiệm vụ của Đinh Thị N là giới thiệu thành viên vay vốn, đôn đốc quản lý người vay sử dụng tiền vay đúng mục đích, thu tiền lãi, tiền gửi của các thành viên trong tổ và nộp lại cho ngân hàng. Theo hợp đồng với ngân hàng N huyện S thì nhiệm vụ của Đinh Thị N là triển khai về cơ chế, chính sách, dịch vụ của ngân hàng, tiếp nhận nhu cầu vay vốn, hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn, cung cấp thông tin khách hàng, giám sát, đôn đốc thành viên sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ gốc, lãi vay đủ.

Từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2017, để có tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, Đinh Thị N đã lợi dụng chức danh Tổ trưởng tổ vay vốn để vay tiền của bà Nguyễn Thị H, ông Bùi Đ1, ông Ngô Phi H. Khi vay tiền, Đinh Thị N nói dối vay tiền cho các thành viên trong tổ vay vốn đáo hạn ngân hàng và Đinh Thị N lập danh sách giả, giấy tờ giả để những người này tin tưởng cho Đinh Thị N vay tiền. Cụ thể:

1. Vay tiền của bà Nguyễn Thị H: Năm 2016, Đinh Thị N đến nhà bà Nguyễn Thị H đặt vấn đề với bà H là các thành viên trong tổ vay vốn có nhu cầu vay tiền để đáo hạn cho các ngân hàng, bà H và N thống nhất lãi suất vay là 4%/tháng, thời hạn vay từ 7-30 ngày sẽ trả nợ, khi bà Nguyễn Thị H giao tiền thì N viết giấy tay mượn tiền, N vay của bà H 05 lần như sau: Ngày 21/12/2016, Đinh Thị N đến nhà bà H vay 200.000.000 đồng và viết giấy mượn tiền. Ngày 30/12/2016, Đinh Thị N đến nhà bà H hỏi vay tiếp 500.000.000 đồng, N viết phía dưới tờ giấy mượn tiền ngày 21/12/2016 nội dung lấy thêm 500.000.000 đồng. Ngày 17/02/2017 (N và bà H ghi nhầm là ngày 17/12/2017), N vay tiếp 200.000.000 đồng, bà H hỏi N sao không trả nợ cũ thì N nói dối là ngân hàng chưa giải ngân nên chưa có tiền trả, bà H yêu cầu nếu không có tiền trả nợ vay trước đó thì phải ghi thêm giấy nợ tiền số tiền 886.000.000 đồng, trong đó 700.000.000 đồng tiền gốc và 186.000.000 đồng tiền lãi thì bà H mới cho vay thêm 200.000.000 đồng, N đồng ý viết một giấy mượn tiền có ghi nội dung: “Có mượn tiền chị Hòa với số tiền là 886.000.000 đồng, lấy thêm 200.000.000 đồng, hôm nay ngày 17/12/2017”. Chiều ngày 17/02/2017, N vay thêm 50.000.000 đồng và viết vào phía dưới giấy mượn tiền ngày 17/02/2017 (thêm 50.000.000 đồng), tổng số tiền 1.136.000.000 đồng. Ngày 17/3/2017, N vay thêm: 250.000.000 đồng và viết giấy mượn tiền. Tổng cộng, N vay của bà H số tiền 1.200.000.000 đồng. Khi đến hạn trả nợ, N tránh mặt, lấy nhiều lý do để trì hoãn việc trả nợ như: Ngân hàng chưa giải ngân, đang đi chữa bệnh,... đến cuối tháng 4/2017, N đưa cho bà H 01 giấy mượn tiền trong đó có nội dung: Ông Lê Thanh T, bà Bùi Kiều L, Kim Thị Thanh T, Bùi Thị Hồng V là cán bộ ngân hàng Chính sách xã hội huyện S mượn của N 879.000.000 đồng nên N không trả cho bà H được. Đầu tháng 7/2017, bà H đến ngân hàng Chính sách xã hội huyện S xác minh thì biết bị N lừa đảo.

2. Vay tiền của ông Bùi Đ1: Đinh Thị N biết vợ chồng ông Bùi Đ1, bà Lương Thị Kim H là người cho vay tiền nên N nói với vợ chồng ông Đ1, N đang làm Tổ trưởng tổ vay vốn của thôn Đ, xã S tại hai ngân hàng N và ngân hàng Chính sách xã hội huyện S, các thành viên trong tổ có nhu cầu vay tiền để đáo hạn ngân hàng nên ông Đ1 tin tưởng cho N vay tiền, lãi suất từ 2-6%/tháng tùy món vay. N vay của vợ chồng ông Đ1 3 lần như sau: Ngày 18/10/2016 tự lập giả 01 bảng danh sách “Bảng kê nợ gốc Tổ liên kết Đ đến ngày 30/09/2016 - (N)” có 15 thành viên và chữ ký photo của người lập bảng là ông Phạm Hoàng Trung (cán bộ ngân hàng N S) với tổng số tiền vay là 980.000.000 đồng, bằng cách: N cắt tên những người ở tài liệu cũ của chồng N khi làm ở Ban Thương binh - xã hội của xã trước đây đem dán vào biểu mẫu của ngân hàng ở phần họ tên người vay, còn ngày vay, tiền vay, lãi thực tính, lãi hỗ trợ thì N cắt ở các bảng của ngân hàng Nông nghiệp giao cho N lưu lại khi Tổ vay vốn thanh toán xong”. Sau đó, N photo đưa cho ông Bùi Đ1 để hỏi vay số tiền 980.000.000 đồng, thời hạn trả nợ gốc là 07 ngày, lãi suất 2.000.000 đồng/ngày, khi nhận tiền N viết giấy mượn tiền. Ngày 20/10/2016, N đến nhà hỏi vay của ông Đ1 55.000.000 đồng nói dối là vay cho người thân, ông Đ1 cho N vay, sau khi nhận tiền N không đưa cho ai mà chiếm đoạt để trả nợ và tiêu xài. Ngày 02/01/2017, N tự lập “Danh sách hộ gia đình thu nợ gốc ngân hàng chính sách xã hội, chương trình cho vay hộ nghèo” có 16 thành viên vay vốn, có chữ ký photo của người lập bảng là Bùi Thị Hồng V (cán bộ ngân hàng CSXH) bằng cách: N lấy mẫu bảng kê do ngân hàng CSXH cấp cho N là Tổ trưởng để điền thông tin theo dõi việc trả lãi ngân hàng của các thành viên trong tổ, N cắt tên một số người dân thôn Đ ở tài liệu cũ của chồng N làm Ban Thương binh - xã hội của xã trước đó dán vào danh sách 16 người, số tiền thì N cắt dán từ số tiền nợ gốc của các thành viên vay vốn do N làm tổ trưởng dán vào phần số tiền đề nghị vay, nhưng do N cần vay số tiền lớn nên N dùng bút tẩy xóa và dao lam cạo xóa đi số tiền nhỏ để điền vào số tiền lớn hơn thành tổng cộng 764.000.000 đồng. Sau đó, N đem danh sách này đi photo rồi đưa cho ông Đ1 hỏi vay số tiền 764.000.000 đồng. Vì trước đó, N vay số tiền lớn chưa trả nên ông Đ1 yêu cầu gặp những người trong danh sách có nhu cầu vay vốn để đáo hạn thì N viện lý do các thành viên đều bận đi làm ăn nên khó tập hợp để gặp mặt. N sẽ lập, danh sách đưa cho hộ ký hoặc điểm chỉ rồi đưa cho ông Đ1 thì ông Đ1 đồng ý. N về nhà dùng giấy vở học sinh viết tay 01 bảng “Danh sách mượn tiền X trả ngân hàng” gồm 16 người, tổng số tiền 764.000.000 đồng, N nhờ các em nhỏ trong thôn ký giúp tên của những người trong danh sách, N nghĩ có những người không biết chữ nên N dùng tay cứa điểm chỉ 6 người. Ngày 04/11/2016, N đem danh sách này đến nhà đưa Đảm hỏi vay số tiền764.000.000 đồng nói dối là để đáo hạn ngân hàng cho 16 thành viên trong danh sách. Ông Đ1 tin tưởng nên cho N vay nhưng không đủ tiền nên chỉ cho N vay 400.000.000 đồng. N lấy số tiền này tiêu xài cá nhân và trả nợ. Khi đến hạn trả nợ, vợ chồng ông Đ1 nhiều lần đến nhà đòi nợ, ngày 21/12/2016 N đến nhà trả cho ông Đ1 140.000.000 đồng, ngày 13/01/2017, N trả 205.000.000 đồng, đầu tháng 3/2017 ông Đ1 đến nhà N lấy nợ 205.000.000 đồng. Tổng cộng N trả cho ông Đ1 số tiền 550.000.000 đồng và trả 40.000.000 đồng tiền lãi. Số tiền N chiếm đoạt của ông Đ1 là 885.000.000 đồng. Đến tháng 7/2017, nghe tin bà H tố cáo N lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên ông Đ1 mới phát hiện bị N lừa.

3. Vay tiền của ông Ngô Phi H: Trước đây, N thường vay tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng của ông H để trả chi phí trồng mía, mì, keo... Đến trước tháng 11/2016, N đến hỏi vay ông H 40.000.000 đồng nói dối là vay giúp cho bà sui (mẹ vợ của con trai N) ở xã S, huyện S để làm nhà, ông H tin tưởng đồng ý cho N vay 40.000.000 đồng. Đến ngày 14/11/2106, N trả cho ông H 14.000.000 đồng. Ngày 28/12/2016, N đến hỏi vay ông H 80.000.000 đồng, nói dối để đáo hạn các khoản nợ tại ngân hàng của các thành viên trong tổ vay vốn thôn Đ do N là tổ trưởng và cam kết trả lãi cho ông H với mức lãi suất 4%/tháng nên ông H tin tưởng giao tiền cho N, N viết giấy mượn tiền ký tên X. Ngày 04/01/2017, N vay thêm của ông H 15.000.000 đồng nói là để giúp bà sui, thực tế số tiền N vay của ông H không phải giúp bà sui hay đáo hạn ngân hàng mà nhằm mục đích tiêu xài và trả nợ. Tổng cộng N lừa của ông Ngô Phi H số tiền 121.000.000 đồng.

Làm việc với ngân hàng CSXH huyện S, xác định: Không có việc N vay tiền bên ngoài để đáo hạn các khoản vay đến hạn trả nợ gốc cho các thành viên trong tổ. Ngân hàng xác nhận Danh sách hộ gia đình thu nợ gốc ngân hàng chính sách xã hội, chương trình cho vay hộ nghèo do ông Bùi Đ1 cung cấp không phải là mẫu của ngân hàng ban hành, 16 người trong danh sách không phải là thành viên Tổ vay vốn do N làm tổ trưởng. Làm việc với 04 cán bộ ngân hàng CSXH S có tên trong danh sách mà Đinh Thị N đưa cho bà H nói họ mượn tiền của N xác định những người này không có mượn tiền của N, chữ viết, chữ ký tại phần ghi chú không phải chữ viết, chữ ký của họ.

Làm việc với ngân hàng N S xác định: 15 người trong danh sách bảng kê nợ gốc Tổ liên kết Đ đến ngày 30/9/2016 - (N) không phải là thành viên của tổ vay vốn mà N làm Tổ trưởng, không có việc N vay tiền bên ngoài để đáo hạn các khoản vay đến hạn trả nợ gốc cho các thành viên trong tổ.

Làm việc với 31 người có tên trong danh sách mà N đưa cho vợ chồng ông Đ1 xác định: 25 người không phải thành viên vay vốn của tổ N và cũng không có nhu cầu vay tiền để đáo hạn ngân hàng. Trong đó, bà Đinh Thị Vạt khai ông Đinh Pét là cha đẻ của bà đã chết năm 2016, mẹ là Đinh Thị Đến chết năm 2017, anh ruột là Đinh A Vun bị câm điếc, con trai Đinh Quang Hy mới 10 tuổi đều là những người không có khả năng được ngân hàng cho vay vốn, những người còn lại không có mặt tại địa phương.

Sau khi bị tố cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các chủ nợ nhiều lần đến nhà đòi nợ nên N bỏ đi khỏi địa phương. Đến ngày 26/3/2018 Đinh Thị N đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi để đầu thú.

Tại Bản kết luận giám định số 83/KLGĐ-PC54 ngày 06/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận:

- Chữ viết, chữ ký trên tài liệu cần giám định có đầu đề “Giấy mượn tiền” có ký hiệu A1, A2, A3, A4, A5 và “Danh sách mượn tiền X trả ngân hàng” có ký hiệu A7, chữ ký trên A6 với chữ viết, chữ ký đề tên Đinh Thị N trên tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký, viết ra.

- Chữ ký (chữ viết) đứng tên Lê Thanh T, Bùi Kiều L, Kim Thị Thanh T và Bùi Thị Hồng V trên tài liệu cần giám định có ký hiệu A6 với các chữ ký (chữ viết) đề tên Lê Thanh T, Lê Thị Kiều L, Võ Thị Thanh T và Bùi Thị Hồng V trên các tài liệu mẫu so sánh là không phải do cùng một người ký (viết) ra.

- Chữ ký (chữ viết) đứng tên Lê Thanh T trên tài liệu cần giám định có ký hiệu A6 với chữ viết, chữ ký ghi tên Đinh Thị N trên tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký (viết) ra.

Các chữ ký (chữ viết) đứng tên Bùi Kiều L, Kim Thị Thanh T và Bùi Thị Hồng V trên tài liệu cần giám định có ký hiệu A6 với chữ viết, chữ ký ghi tên Đinh Thị N trên tài liệu mẫu so sánh không kết luận giám định được.

- Các chữ viết trên tài liệu cần giám định có ký hiệu A7 (cột phía bên phải) với chữ viết ghi tên Đinh Thị N trên tài liệu mẫu so sánh không kết luận giám định được.

- 06 (sáu) dấu vết đường vân trên tài liệu cần giám định có ký hiệu A7 (cột phía bên phải) không đủ yếu tố giám định truy nguyên đồng nhất.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Căn cứ vào: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

* Tuyên bố: Bị cáo Đinh Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Thị N 12 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/3/2018 đến ngày 29/3/2018.

Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/10/2018, bị cáo Đinh Thị N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/01/2019, bị hại Nguyễn Thị H kháng cáo quá hạn, với lý do bà H nghe bị cáo N nói với mọi người là bị cáo N kháng cáo và Tòa án sẽ giảm hình phạt cho bị cáo N xuống còn 03 năm tù. Đồng thời, sau khi ra tù sẽ không trả tiền cho bà H nên bà kháng cáo. Việc kháng cáo quá hạn của bà H không có cơ sở nên ngày 10/4/2019, hội đồng xét kháng cáo quá hạn đã bác kháng cáo quá hạn.

- Bị cáo Đinh Thị N giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như Đinh Thị N bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngải xử phạt về tội “Lừa đảo chiếm tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp. Do đó, đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm bác kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với số tiền chiếm đoạt của bà H mà cấp sơ thẩm đã quy kết là không đúng nên đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của các bị hại nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Mặc dù không có trách nhiệm vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho các thành viên trong tổ vay vốn nhưng để có tiền tiêu xài và trả nợ nên từ năm 2016 đền năm 2017, Đinh Thị N đã lợi dụng chức danh là Tổ trưởng tổ vay vốn thôn Đ để vay tiền của các ông bà Nguyễn Thị H, Bùi Đ1, Ngô Phi H. Khi vay tiền, bị cáo nói dối với các bị hại là vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho các thành viên trong tổ vay vốn hoặc vay cho người thân và làm giả danh sách, giả chữ ký, điểm chỉ các thành viên trong tổ. Ngoài ra, khi bị bà Nguyễn Thị H đòi nợ, bị cáo tiếp tục lập giấy mượn tiền giả với nội dung có 04 cán bộ ngân hàng Chính sách xã hội mượn tiền của bị cáo, để trốn tránh việc trả nợ nhằm chiếm đoạt tiền của người bị hại. Tổng số tiền bị cáo Đinh Thị N chiếm đoạt của 03 người bị hại số tiền là 2.206.000.000 đồng.

Hành vi trên của bị cáo Đinh Thị N bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:

Đây là vụ án lừa đảo mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, lợi dụng bản thân là tổ trưởng vay vốn để chiếm đoạt số tiền lớn và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội. Nên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi sau khi đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ về khắc phục thiệt hại, về khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải của bị cáo để xử phạt bị cáo Đinh Thị N 12 năm tù là phù hợp, không nặng. Vì vậy, HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

[3] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

[4] Do bị cáo Đinh Thị N là người dân tộc thiểu số nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đinh Thị N và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Thị N 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/3/2018 đến ngày 29/3/2018.

Các phần quyết định còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, về lãi chậm thi hành án và về án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Đinh Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

594
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:101/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về