TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 101/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 193/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02/7/2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Kim H, sinh năm 1976
Địa chỉ: Nhà không số thuộc tổ 31, Khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Ông Vũ Hoàng A, sinh năm 1971.
Địa chỉ: 211A/2B, Khu phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
(Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Vũ Hoàng A vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Trịnh Thị Kim H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Vũ Hoàng A tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2004 tại UBND phường Tam Hiệp, thành phố B, tỉnh Đ. Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu. Bắt đầu từ năm 2007 thì giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, ông Hoàng A thường xuyên uống rượu về nhà chửi mắng bà, có hành vi bạo lực gia đình, đập phá đồ đạc, đánh bà gây thương tích; không quan tâm đến bà, không có trách nhiệm với vợ con. Hai vợ chồng bà đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Hiện nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Hoàng Anh.
Về con chung: Có 02 con chung là các cháu Vũ Gia H, sinh ngày 05/03/2005 và cháu Vũ Ngọc H, sinh ngày 09/7/2014. Ly hôn bà H xin được nuôi dưỡng cháu H; ông Hoàng A nuôi dưỡng cháu Gia H; tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn Ông Vũ Hoàng A: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông A vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:
Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.
Về việc giải quyết tranh chấp:
- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Trịnh Thị Kim H được ly hôn với ông Vũ Hoàng A.
- Về quan hệ con chung: Có 02 con chung là các cháu Vũ Gia H, sinh ngày 05/03/2005 và cháu Vũ Ngọc H, sinh ngày 09/7/2014. Ly hôn bà H xin được nuôi dưỡng cháu H; ông Hoàng A nuôi dưỡng cháu Gia Hy. Xét yêu cầu của bà H là có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ hiện nay cháu H đang ở với bà H, cháu H đang ở với ông A, theo bản tự khai của cháu H thì cháu có nguyện vọng muốn được ở với bố. Để đảm bảo về cuộc sống của các cháu H và H , không làm xáo trộn cuộc sống của các cháu, cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; chấp nhận yêu cầu của bà Hoa, giao cháu Hân cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; giao cháu H cho ông A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Vì không trực tiếp nuôi con nên cả bà H và ông A được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông Vũ Hoàng A vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông A, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
Về án phí: Bà Trịnh Thị Kim H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng:
- Bà Trịnh Thị Kim H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Vũ Hoàng A; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà H là nguyên đơn còn là bị đơn trong vụ án.
- Ông Vũ Hoàng A có địa chỉ cư trú hiện nay tại số: 211A/2B, Khu phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.
- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Hoàng A tại địa chỉ này, nhưng ông A vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 02/07/2019, bà H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt ông Hoàng A và bà H.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Ông Vũ Hoàng A và bà Trịnh Thị Kim H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2004 tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu, từ năm 2007 thì giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, ông Hoàng A thường xuyên uống rượu về nhà chửi mắng bà, có hành vi bạo lực gia đình, đập phá đồ đạc, đánh bà gây thương tích; không quan tâm đến bà, không có trách nhiệm với vợ con. Hai vợ chồng bà đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Hiện nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Hoàng A. Xét yêu cầu ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống nhiều năm; vợ chồng bà H và ông A chung sống với nhau không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng. Theo Biên bản xác minh nơi cư trú của Công an phường T và Biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng của Ủy ban nhân dân phường T thì hiện nay ông Hoàng A có cư trú tại và sinh sống tại địa chỉ: 211A/2B, Khu phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, đồng thời xác nhận việc giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn với nhau, hiện nay đã sống ly thân. Mặt khác, quá trình làm việc, mặc dù ông A đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần, nhưng đều cố ý vắng mặt, thể hiện việc không có ý định muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa ông Hoàng A và bà H là có thật, đời sống chung không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Trịnh Thị Kim H được ly hôn với ông Vũ Hoàng A.
[3]. Về con chung: Có 02 con chung là các cháu Vũ Gia H, sinh ngày 05/03/2005 và cháu Vũ Ngọc H, sinh ngày 09/7/2014. Ly hôn bà H xin được nuôi dưỡng cháu H; ông Hoàng A nuôi dưỡng cháu Gia Huy. Xét yêu cầu của bà H là có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ hiện nay cháu H đang ở với bà H, cháu H đang ở với ông A; theo bản tự khai của cháu H thì cháu có nguyện vọng muốn được ở với bố. Để đảm bảo về cuộc sống của các cháu H và H, không làm xáo trộn cuộc sống của các cháu, cần thiết chấp nhận yêu cầu của bà H, giao cháu H cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; giao cháu H cho ông A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Vì không trực tiếp nuôi con nên cả bà H và ông A được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông Vũ Hoàng A vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông A, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Trịnh Thị Kim H phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Kim H được ly hôn với ông Vũ Hoàng A.
Về con chung: Giao cháu Vũ Gia H, sinh ngày 05/03/2005 cho ông Vũ Hoàng A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Giao cháu Vũ Ngọc H, sinh ngày 09/7/2014 cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Vì không trực tiếp nuôi con, nên và H và ông A được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông Vũ Hoàng A vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông A, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trịnh Thị Kim H phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0003670 ngày 03/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm Bà Trịnh Thị Kim H và ông Vũ Hoàng A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 101/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 101/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về