TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 101/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH V VÀ CHỊ D
Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Đước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 365/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 83/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Võ Trùng V, sinh năm: 1989 (có mặt). Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Long An.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm: 1991 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 1B, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 16/8/2019 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn anh Võ Trùng V trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thùy D cưới nhau vào năm 2009, hôn nhân do tự nguyện và đăng ký kết hôn vào ngày 24/8/2009 tại UBND xã T, huyện C, tỉnh Long An. Sau khi cưới, anh và chị D có thời gian sống chung bên gia đình anh và bên gia đình chị D, đến năm 2013 khi sống bên gia đình anh thì chị D tự bỏ về nhà cha mẹ ruột ở cho đến nay. Theo anh, thời gian đầu vợ chồng chung sống cũng hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau trong mọi vấn đề. Anh và chị D ly thân từ năm 2013 cho đến nay nhưng cả hai không ai có thiện chí hàn gắn hạnh phúc. Nay xét thấy, thời gian ly thân đã lâu, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn nên anh yêu cầu được ly hôn với chị D.
Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Võ Anh H, sinh ngày 13/12/2009, hiện chị D đang nuôi dưỡng cháu H. Khi ly hôn, anh V đồng ý cho chị D được tiếp tục nuôi con chung; anh không cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản: không có.
Về nợ: không có nợ chung.
Tòa án tiến hành lập thủ tục thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy D vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Anh Võ Trùng V khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy D. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy D đã được Tòa án thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia vụ án nhưng đều vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị D.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về hôn nhân: Anh Võ Trùng V và chị Nguyễn Thị Thùy D chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2009 là hôn nhân hợp pháp. Theo anh V nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng tính tình không hợp nên thường xuyên cãi vã nhau, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy D.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị D nhưng chị D không đến Tòa án, chứng tỏ chị D không có thiện chí hàn gắn tình cảm với anh V để vợ chồng đoàn tụ, anh V cương quyết ly hôn vì cho rằng vợ chồng không có khả năng hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh V và chị D đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc anh V yêu cầu được ly hôn với chị D là có căn cứ. Do đó, cần áp dụng Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Võ Trùng V.
[2.2] Về nuôi con chung: Theo chứng cứ do anh V cung cấp, anh V và chị D có 01 con chung tên Võ Anh H, sinh ngày 13/12/2009 hiện chị D đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh V đồng ý cho chị D được tiếp tục nuôi cháu H, anh không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu H đang do chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh V đồng ý cho chị D được tiếp tục nuôi cháu H, nguyện vọng cháu H là mong muốn được sống cùng mẹ. Do đó, để đảm bảo sự phát triển ổn định của con nên Hội đồng xét xử quyết định chị D được tiếp tục nuôi cháu H. Anh Võ Trùng V không cấp dưỡng nuôi con.
[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Do chị D không có văn bản trình bày vấn đề này, anh V xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu các đương sự có tranh chấp, sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.
[2.4] Về án phí: Anh Võ Trùng V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
[2.5] Về quyền kháng cáo: Anh Võ Trùng V và chị Nguyễn Thị Thùy D được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Trùng V về việc “Ly hôn” với chị Nguyễn Thị Thùy D.
1.Về hôn nhân: Anh Võ Trùng V được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy D.
2.Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Thùy D được tiếp tục nuôi con chung là cháu Võ Anh H, sinh ngày 13/12/2009. Anh Võ Trùng V không phải cấp dưỡng nuôi con.
Bên không nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Toà án có thể thay đổi người nuôi dưỡng cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.
3.Về án phí: Anh Võ Trùng V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0001582 ngày 28/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Đước.
4.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 101/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về ly hôn giữa anh V và chị D
Số hiệu: | 101/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về