Bản án 101/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 101/2018/HS-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 114/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Thành S (tên thường gọi là P); Sinh ngày: 06/4/1982; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 62/4 đường THĐ, Phường N, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 473/30/2 đường THĐ, khu phố H, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Thành M và bà: Ngô Thị T; Có vợ: Là bà Trần Thị Thanh T và con: Có 01 người con, sinh năm 2007; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 31/8/2018.

(có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 50 phút ngày 31/8/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 kết hợp cùng Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 6 và Công an Phường 13, Quận 6 kiểm tra hành chính tiệm game bắn cá số 289 đường BH, Phường M, Quận F. Qua kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ dưới chân bên phải của Trương Thành S (đang ngồi chơi game trong tiệm) 01 hộp nhựa bên ngoài có dán Decal màu đỏ, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu; 02 hộp quẹt diêm, bên trong mỗi hộp quẹt có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (S khai đó là ma túy đá). Ngoài ra, Công an còn thu giữ của S 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng hồng, nên đã giao S cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường 13, Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Trương Thành S khai: Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, khoảng 17 giờ ngày 31/8/2018, S gọi điện thoại cho một người tên B (không rõ lai lịch) qua số điện thoại 0908918983 hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 6.500.000 đồng. Sau đó, S đến điểm hẹn tại ngã tư Kênh Tân Hóa - đường Lũy Bán Bích, Quận 6 gặp B lấy bịch ma túy. Sau khi có ma túy, S cất vào trong 01 hộp nhựa bên ngoài có dán Decal màu đỏ, rồi đem hộp nhựa này cùng 02 hộp quẹt diêm bên ngoài có ghi chữ Sài Gòn, bên trong có 02 bịch ma túy còn lại của những ngày trước đón xe ôm đến tiệm game bắn cá số 289 đường BH thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu.

Tại Kết luận giám định số: 1490/KLGĐ-H ngày 07 tháng 9 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Phạm Minh Hải (người chứng kiến), Trương Thành S và hình dấu Công an Phường 13, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,5681g (một chín phẩy năm sáu tám một gam), loại Methamphetamine.

Đối với người tên Bửu bán ma túy cho Trương Thành S, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 110/CT-VKS-Q6 ngày 12 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trương Thành S về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Thành S khai nhận chính bị cáo, đã thực hiện hành vi mua 01 bịch ma túy đá với giá 6.500.000 đồng từ một người tên Bửu (không rõ lai lịch) ở khu vực ngã tư Kênh Tân Hóa - đường Lũy Bán Bích vào khoảng 19 giờ ngày 31/8/2018, rồi sau đó đem bịch ma túy này cùng với 02 bịch ma túy còn lại của những ngày trước đến tiệm game bắn cá số 289 đường BH, Phường M, Quận F để bán cho các con nghiện (không rõ lai lịch) thì bị Công an phát hiện bắt quả tang như bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trương Thành S như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Trương Thành S từ 08 năm đến 10 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » theo điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động bên ngoài có ghi chữ Oppo, vỏ màu trắng hồng (đã qua sử dụng).

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1490/2018 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 hộp nhựa màu trắng, bên ngoài có dán Decal màu đỏ; 02 hộp quẹt diêm, bên ngoài có ghi chữ Sài Gòn và 01 sim điện thoại số seri: 8401180750177399.

Lời nói sau cùng, bị cáo Trương Thành S nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Trương Thành S tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản ghi nhận hiện trường ngày 31/8/2018 của Công an Quận 6, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Thành S đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy . Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Trương Thành S đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine). Và chất ma túy mà bị cáo cất giữ để bán có khối lượng 19,5681 gam, là phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp « chất ma túy ở thể rắn có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam » quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Trương Thành S không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Trương Thành S có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng do hám lợi, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trương Thành S là rất nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Trương Thành S theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Trương Thành S dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động bên ngoài có ghi chữ Oppo, vỏ màu trắng hồng (đã qua sử dụng), Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1490/2018 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 hộp nhựa màu trắng, bên ngoài có dán Decal màu đỏ; 02 hộp quẹt diêm, bên ngoài có ghi chữ Sài Gòn và 01 sim điện thoại số seri: 8401180750177399, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 155/PNK ngày 27 tháng 9 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL73).

[6] Đối với người tên B mà bị cáo Trương Thành S khai bán ma túy cho bị cáo và những người mua ma túy từ bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Trương Thành S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trương Thành S (P) phạm tội: « Mua bán trái phép chất ma túy ».

- Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trương Thành S (P) 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2018.

- Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Trương Thành S nộp phạt 7.000.000 (bảy triệu) đồng.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động bên ngoài có ghi chữ Oppo, vỏ màu trắng hồng (đã qua sử dụng).

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1490/2018 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 (một) hộp nhựa màu trắng, bên ngoài có dán Decal màu đỏ; 02 (hai) hộp quẹt diêm, bên ngoài có ghi chữ Sài Gòn và 01 (một) sim điện thoại số seri: 8401180750177399.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Nghị quyết  326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trương Thành S phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Trương Thành S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về