Bản án 101/2018/HS-PT ngày 21/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 101/2018/HS-PT NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/6/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 87/2018/TLPT-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo Trần Công D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của Tòa án nhân dân Huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

-Bị cáo có kháng cáo:

Trần Công D (D xe thồ), sinh năm 1969 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Xe thồ; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Công C (c) và bà Nguyễn Thị L (c); Có vợ là Nguyễn Thị H, có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2017. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 21/10/2017 đến 23/10/2017 Trần Công D đã hai lần bán chất ma túy dạng thảo mộc – cỏ Mỹ cho Ông Văn Ngọc cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào ngày 21/10/2017 Ông Văn N gọi cho D hỏi mua 120.000đồng cỏ Mỹ thì D chạy xe xuống đường Lê Thánh Tôn mua ma túy dạng thảo mộc của một người phụ nữ đem về bán lại cho Ông Văn giá 120.000đồng tại Trung tâm hành chính huyện Hòa Vang.

Lần thứ hai: vào ngày 23/10/2017 Ông Văn N hỏi mua 200.000đồng cỏ Mỹ và Trần Công D đã tiếp tục đi mua của một người phụ nữ tại khu vực đường Lê Thánh Tôn đem về bán lại cho N tại Trung tâm hành chính huyện Hòa Vang thì bị lực lượng công an huyện Hòa Vang phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ trên người của Trần Công D 09 gói và trên người của Ông Văn N 01 gói đều là thảo mộc dạng cỏ (cỏ Mỹ).

Tại bản kết luận giám định số 723/C45C ngày 01/11/2017 của Phân viện kỹ thuật hình sự - Bộ công an tại thành phố Đà Nẵng kết luận 10 gói thảo mộc (cỏ Mỹ) có tổng trọng lượng 21,273gam.

Tại bản án sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

- Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS 1999,

Xử phạt: Trần Công D 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/10/2017.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo bản án.

Ngày 19/4/2018, bị cáo Trần Công D có đơn kháng cáo với nội dung: xin cấpphúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Công D có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy: Bị cáo Trần Công D đã 02 lần thực hiện hành vi bán ma túy dưới dạng thảo mộc - cỏ Mỹ cho Ông Văn N. Trong đó lần bán thứ hai thì bị bắt quả tang. Thu giữ trên người bị cáo và trên người của N với tổng trọng lượng là 21,273gram nên Bản án sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999, xử phạt bị cáo Trần Công D 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Công D đã thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng. Tuy nhiên bị cáo cho rằng bị cáo chỉ bán ma túy cho ông N 01 lần vào ngày bắt quả tang. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Công D chỉ thừa nhận bán ma túy cho Ông Văn N 01 lần, nhưng căn cứ vào lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của Ông Văn N trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ ngày 21/10/2017 đến ngày 23/10/2017, bị cáo Trần Công D đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy dưới dạng thảo mộc - cỏ Mỹ cho Ông Văn N. Trong đó lần bán thứ hai vào ngày 23/10/2017 thì bị công an bắt quả tang, thu giữ trên người của D và trên người của

Ông Văn N tổng trọng lượng là 21,273gram. Do đó Bản án sơ thẩm số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phốĐà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999 là có căn cứ, đúng tội.

 [2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Công D, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo nhận thức được việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn xem thường pháp luật thực hiện hành vi mua bán chất ma túy nhiều lần. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm tù là phù hợp, không nặng và đã có cân nhắc, xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS 2015, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công D, giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào: Điểm a, khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS 1999

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công D và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Xử phạt: Trần Công D 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/10/2017.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trần Công D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2018/HS-PT ngày 21/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về