TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BÁN ÁN 101/2018/DS-PT NGÀY 14/03/2018 VỀ YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CẢN TRỞ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRÁI PHÁP LUẬT; YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2018/TLPT-DS ngày 32/01/2018 về “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở QSD đất trái luật; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất và hủy giấy chứng nhận QSD đất”
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 63/2017/DS-ST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 14/2018/QĐ-PT ngày 22/02/2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 21/2018/QĐ-PT ngày 07/3/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Lê Thanh H, sinh năm 1989 (có mặt)
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre, ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt)
Bị đơn: Ông Đỗ Văn B, sinh năm 1966 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre, ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Đệ Nh, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 443, khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Bến Tre (có mặt).
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/- Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1937 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp Hòa A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre
2/- Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Bến Tre;
Địa chỉ trụ sở: Số 01, đường Trần Quốc Tuấn, phường 2, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre;
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Ch – Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Bến Tre ( xin giải quyết vắng mặt);
Người kháng cáo: ông Đỗ Văn B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/3/2017, bản tự khai, biên bản hòa giải không thành và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Lê Thanh H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 25 tháng 11 năm 2016, bà Bùi Thị Đ ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Lê Thanh H 1.981,5m2 đất thuộc thửa số 338, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre với giá 450.000.000 đồng. Ông H đã trả tiền xong cho bà Đ và đã được Sở Tài nguyên– Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 07 tháng 12 năm 2016. Trước khi nhận chuyển nhượng đất từ bà Đ, ông H biết ông Đỗ Văn B đang ở tạm trên đất và anh có báo cho ông B biết việc anh mua đất của bà Đ nhưng ông B không có hành động gì cản trở việc mua bán này. Đến khi ông H vào canh tác trên đất thì ông B cản trở, không cho ông H vào canh tác đất nên ông H gửi đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc giải quyết. Tại biên bản giải quyết thắc mắc của ông Đỗ Văn B ngày 24 tháng 02 năm 2017, ông B hứa trong một tháng sẽ đi nơi khác, trả đất cho ông H nhưng sau đó ông B không thực hiện mà tiếp tục cản trở việc sử dụng đất của anh H. Khi ông H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Đ thì trên đất đã có hai ngôi nhà của bà Đ. Bà Đ cam kết sau khi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong thì sẽ tháo dỡ, di dời nhà, giao đất cho ông H. Thực tế thì bà Đ đã tháo dỡ ngôi nhà lớn, chỉ còn lại ngôi nhà nhỏ hiện ông B đang chiếm ở.
Nay ông H yêu cầu Tòa án buộc ông B chấm dứt hành vi cản trở anh thực hiện quyền sử dụng đối với thửa đất số 338, tờ bản đồ số 11, ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre, đi khỏi đất và giao trả cho anh thửa đất nêu trên. Ông H cam kết để ông B và gia đình được đi vào đất để chăm sóc mộ của cha ông B.
Mặc dù vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm nhưng tại Đơn yêu cầu phản tố đề ngày 03 tháng 4 năm 2017, bản tự khai đề ngày 24 tháng 4 năm 2017 và biên bản hòa giải không thành ngày 13 tháng 9 năm 2017, anh Đỗ Văn B và người đại diện theo ủy quyền của ông B trình bày:Năm 1997, ông B được Ủy ban nhân dân huyện Chợ Lách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các thửa đất số 1230, 1231 và 1271 ở ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ. Đến năm 2013, do bà Đ có tranh chấp nên Ủy ban nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc đã ra Quyết định thu hồi hai thửa đất 1230 và 1231 và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ đối với hai thửa đất nêu trên. Việc Ủy ban nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với hai thửa đất nêu trên thì ông B biết và đã nhận được Quyết định thu hồi nhưng việc Ủy ban nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ hai thửa đất này thì ông B không biết. Tuy ông B ở trên đất này từ năm 1984 đến nay nhưng khi bà Đ bán đất cho ông H thì ông B cũng không hay biết. Đến khi ông H vào canh tác trên đất thì ông B biết và hai bên xảy ra tranh chấp.
Nay ông H yêu cầu ông B chấm dứt hành vi cản trở và giao đất cho ông H, ông B không đồng ý và yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Bùi Thị Đ và ông Lê Thanh H, đồng thời hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp cho ông H.
Tại bản tự khai đề ngày 24 tháng 4 năm 2017 và biên bản hòa giải không thành ngày 13 tháng 9 năm 2017, bà Bùi Thị Đ và người đại diện theo ủy quyền của bà Đ trình bày:Thửa đất số 338, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ do Nhà nước thu hồi của ông B vào năm 2013 và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ vào năm 2014. Đến năm 2016, bà Đ chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông H là hoàn toàn hợp pháp nên bà Đ không đồng ý với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà và ông H.
Tại Công văn số: 981/STNMT-VPĐK ngày 24 tháng 4 năm 2017, Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Bến Tre nêu việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Lê Thanh H đối với thửa đất số 338, tờ bản đồ số 11, ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre dựa trên cơ sở: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Bùi Thị Đ và ông Lê Thanh H đã được Ủy ban nhân dân xã Phú Mỹ chứng thực số: 342, ngày 25 tháng 11 năm 2016. Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Lê Thanh H là đúng quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 63/2017/DS-ST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc quyết định:
Áp dụng các điều 164, 166 và 169 của Bộ luật dân sự 2015; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 ; các điều 147, 157, 158, 165, 166, Điểm c Khoản 1 Điều 217, Khoản 2 Điều 218, các điều 227, 228 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự ; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thanh H. Cụ thể tuyên :
1. Buộc ông Đỗ Văn B chấm dứt các hành vi cản trở ông Lê Thanh H thực hiện các quyền của chủ sử dụng đất đối với thửa đất số: 338, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
2. Buộc ông Đỗ Văn B đi khỏi thửa đất số: 338, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và giao trả cho ông Lê Thanh H toàn bộ thửa đất số: 338, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre(có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Đỗ Văn B về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng giữa ông Lê Thanh H và bà Bùi Thị Đ.
4. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Đỗ Văn B về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Thanh H do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 07 tháng 12 năm 2016.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 02/01/2018 ông Đỗ Văn B kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
Tại phiên Toà phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Văn B giữ nguyên quan điểm kháng cáo, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng theo pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: sau khi cấp sơ thẩm thụ lý vụ án thì đến ngày 03/4/2017 ông B có đơn yêu cầu phản tố hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Đ và ông H đồng thời yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông H. Theo quy định tại Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 32 luật tố tụng hành chính thì yêu cầu phản tố của ông B thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh, cấp sơ thẩm giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Căn cứ vào Điều 308, 310 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị HDXX chấp nhận kháng cáo của bị đơn, hủy án sơ thẩm, giao toàn bộ hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc xét xử lại theo thủ tục chung.
Bản án 101/2018/DS-PT ngày 14/03/2018 về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất trái luật; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 101/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về