Bản án 101/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 101/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 108/2017/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

 Bùi Đình T (tức Bùi Đình C)- sinh năm 1988

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã TX, huyện T1, tỉnh T Bình.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bố đẻ: Bùi Đình C1, sinh năm 1963; mẹ đẻ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1964.

Bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ 2; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 60/2010/HSST ngày 14/12/2010 của Toà án nhân dân huyện T1, tỉnh T Bình xử phạt T 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 07/3/2012 chấp hành xong bản án; ngày 25/01/2013, bị Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình ra Quyết định số 228/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục vì nhiều lần trộm cắp tài sản với thời hạn 24 tháng, tại cơ sở giáo dục Thanh Hà, đến ngày 14/02/2015 chấp hành xong quyết định.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 28/6/2017 đến ngày 01/7/2017 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Những người làm chứng:

Ông Bùi Hữu T2, sinh năm 1971, trú tại thôn L và ông Mai T3, sinh năm 1946, trú tại thôn TC, đều thuộc xã TT, huyện T1, tỉnh Thái Bình (Những người làm chứng đều vắng mặt không có lý do).

NHẬN THẤY

Bị cáo Bùi Đình T bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do bị nghiện ma túy, nên khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/6/2017, T đi xe ôm của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ từ nhà đến ngã tư xã TT, huyện T1, tỉnh Thái Bình mua 03 gói ma tuý với giá 300.000 đồng của một người đàn ông khoảng 45 tuổi, không biết tên, địa chỉ, đặc điểm, mục đích để sử dụng. T cất 03 gói ma túy vào túi quần đang mặc rồi đi xe ôm về nhà. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày T đang đi bộ trên trục đường thuộc thôn TC, xã TT, huyện T1 thì bị tổ công tác của Công an huyện T1 và Công an xã TT phát hiện, yêu cầu T về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã TT để làm việc. Tại đây, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và hai người làm chứng, tổ công tác kiểm tra thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của T đang mặc 03 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng mẫu số A1 gửi đi giám định. Cùng ngày, Công an huyện T1 khám xét khẩn cấp nơi ở của T nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Trong quá trình điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Lời khai của những người làm chứng:

Ông Bùi Hữu T2 và ông Mai T3 trình bày: Vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 28/6/2017, chúng tôi đã được mời đến Uỷ ban nhân dân xã TT chứng kiến việc tổ công tác của Công an huyện T1 và Công an xã TT kiểm tra người anh Bùi Đình T phát hiện và thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của T đang mặc 03 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. T khai đó là ma túy vừa mua với giá 300.000 đồng. Ngoài ra tổ công tác không phát hiện gì khác.

Tại Bản kết luận giám định số 228/KLGĐ-PC54 ngày 28/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “Mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (hêrôin) có trọng lượng 0,4419 gam. Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.

Tại Cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 12/9/2017, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình quyết định truy tố Bùi Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Vị đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Kiểm sát viên đề nghị: Tuyên bố bị cáo Bùi Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù đến 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù; tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

XÉT THẤY

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T đều khai nhận: Do bị nghiện ma túy nên khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/6/2017, T đi xe ôm của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ từ nhà đến ngã tư xã TT, huyện T1, tỉnh Thái Bình mua 03 gói ma tuý với giá 300.000 đồng của một người đàn ông khoảng 45 tuổi, không biết tên, địa chỉ, đặc điểm, mục đích để sử dụng. T cất 03 gói ma túy vào túi quần đang mặc rồi đi xe ôm về nhà. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày T đang đi bộ trên trục đường thuộc thôn TC, xã TT, huyện T1 thì bị tổ công tác của Công an huyện T1 và Công an xã TT phát hiện, yêu cầu T về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã TT để làm việc. Tại đây, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và hai người làm chứng, tổ công tác kiểm tra thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của T đang mặc 03 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. T khai đó là ma túy loại hê rô in vừa mua về mục đích để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích khác. Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cất giấu ma túy để sử dụng. Bị cáo nhận tội, khai báo thành khẩn và xin giảm nhẹ hình phạt.

Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Đình T phù hợp và được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện T1 lập hồi 13 giờ 10 phút ngày 28/6/2017; lời khai của những người làm chứng là các ông Bùi Hữu T2 và ông Mai T3;

Kết luận giám định về trọng lượng, loại ma túy; Biên bản khám xét và những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, bị cáo Bùi Đình T là người đã thực hiện hành vi cất giấu trong người 03 gói ma túy, loại hêrôin có trọng lượng 0,4419 gam. Chất hêrôin là chất ma túy được quy định trong Nghị định số 82/2013/NĐ-CP Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Đây là ma túy do bị cáo mua về để sử dụng mà không có mục đích khác nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh T Bình quyết định truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Bị cáo Bùi Đình T là người nghiện ma túy, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người đồng thời là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn khác cho xã hội, là nguyên nhân lây truyền dịch bệnh HIV/AIDS, bản thân bị cáo bị mắc HIV; bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cất giấu ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã vi phạm chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự nên phải xử lý; cần áp dụng Điều 33

Bộ luật hình sự xử phạt tù đối với bị cáo. Như vậy có thể giáo dục bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Theo Hội đồng xét xử thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử cũng xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Bùi Đình T đều thành khẩn khai báo do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo có thời gian tham gia quân đội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ 0,4419 gam hêrôin nên áp dụng hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội đến khi Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành cho bị cáo được hưởng tình tiết quy định về một hình phạt nhẹ hơn theo Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Trong vụ án này:

Đối với người bán ma tuý cho Bùi Đình T ở ngã tư xã TT, huyện T1 ngày 28/6/2017 và người xe ôm T thuê chở xuống ngã tư xã TT để mua ma tuý, T không biết tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của họ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng:

Số vật chứng hiện đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/9/2017 gồm: 0,4419 gam ma túy loại hêrôin, sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,4302 gam đựng trong phong bì niêm phong số 228/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình. Đây là vật cấm lưu hành nên cần áp dụng Khoản 1; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Về án phí:

Bị cáo Bùi Đình T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Đình T (Bùi Đình C) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điều luật:

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:

Xử phạt bị cáo Bùi Đình T (Bùi Đình C) 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 28/6/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Vật chứng đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình được xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy 0,4302 gam chế phẩm hêrôin sau khi lấy mẫu giám định còn lại tại mẫu A1. (Toàn bộ vật chứng có đặc điểm mô tả chi tiết trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/9/2017 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Đình T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về