Bản án 100/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội cướp giật tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TI CƯP GIẬT TÀI SẢN; LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn D, sinh năm 2000; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H và bà Tống Thị Q; Chưa có vợ; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 26/5/2020 đến ngày 04/6/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại:

+ Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn G, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

+ Chị Nguyễn Thị D - Sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Tống Thị Q - Sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14h30’ ngày 22/5/2020, Phạm Văn D đi xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại Jupiter, màu đỏ đen, BKS: 81B1-642.06 điều khiển xe máy trên tuyến QL1A theo hướng H Nội-Thanh Hóa; lúc này, D mặc áo chống nắng, sọc kẻ caro, quần bò màu nâu đen, di dép lê màu đen vàng, đeo khẩu trang, loại khấu trang y tế màu xanh và không đội mũ bảo hiểm. Khi đi đến chân cầu vượt thuộc địa phận xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn thì D phát hiện chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989 ở thôn Gia Miêu, xã H Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đang điều khiển xe máy nhãn hiệu LEAD, màu trắng, BKS: 36B2 - 127.33 đi cùng chiều phía trước, D quan sát, phát hiện tại túi áo chống nắng phía bên trái chị H đang mặc có 01 chiếc điện thoại, D liền nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại này của chị H. D điều khiển xe máy bám theo phía sau chị H, khi đi đến Km 295 QL1A cách cầu Cừ về phía Nam khoảng 01 km thuộc địa phận xã Yên Dương, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, lúc này trên đường vắng người đi lại nên D đã điều khiển xe máy áp sát xe của chị H, dùng tay phải giật chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6, Plus của chị H đang để trong túi áo rồi đề ga tẩu thoát. Khi D vừa giật chiếc điện thoại thì chị H điều khiển xe máy đuổi theo D đến khu vực gần cổng làng Yên Xá, xã Yên Dương, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, cách vị trí chị H bị D cướp giật điện thoại khoảng 02 km thì không theo kịp D nữa và mất dấu của D. Đến ngày 23/5/2020, chị H đến Công an huyện Hà Trung báo cáo toàn bộ nội dung vụ việc (BL số 01,02, 191-196).

Sau khi cướp giật được chiếc điện thoại của chị H, D điều khiển xe máy đi đến khách sạn Lam Quân thì rẽ vào đường đi cầu Huyện ủy, qua Ủy ban nhân dân huyện Hà Trung rồi ra QL1A đi về nH ở thôn Đà Sơn, xã H Bắc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Về đến nH, D lấy chiếc điện thoại vừa cướp giật được của chị H ra kiểm tra, D thử mở khóa bằng mật khấu là 04 số “0” thì mở được mật khẩu của chiếc điện thoại. Lúc này, D nảy sinh ý định đăng nhập và sử dụng nick zalo “DHa” của chị H, giả mạo là chị H nhắn tin cho những người trong danh sách bạn bè của chị H để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong số những người mà D nhắn tin có chị Nguyễn Thị D, Sinh năm: 1980 ở tiểu khu 3, thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa là chị gái của chị H, khi thấy nội dung tin nhắn từ zalo DHa, nghĩ là em gái vay tiền nên chị D đã tin và nhờ anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1983 ở tiểu khu 3, thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa chuyển tiền qua dịch vụ Internet Banking đến số tài khoản: 100870521039 mang tên PHAM VAN DUY (là tài khoản của Phạm Văn Duy - Em trai của D) với số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Sau khi nhận được tiền, D tiếp tục sử dụng zalo của chị H và nhắn tin cho chị D để lừa đảo lấy thêm số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng), tổng số tiền mà D lừa đảo chiếm đoạt của chị D là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng). Đến chiều ngày 23/5/2020, D điều khiển xe máy BKS: 81B1 - 642.06, mặc áo phông kẻ caro, mào trắng đỏ, đi dép màu vàng đen, quần bò ngố và cầm theo chiếc thẻ ATM đã mượn của e trai D tên là Phạm Văn Duy trước đó đến cây ATM trước cổng ngân Hng Viettinbank chi nhánh Bỉm Sơn thuộc Phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa rút toàn bộ số tiền Lừa đảo được của chị D ngày 22/5/2020 nhưng D chỉ rút được số tiền 6.9000.000đ (sáu triệu chín trăm nghìn đồng) vì ngân Hng giữ lại 100.000đ để duy trì hoạt động của tài khoản, sau khi rút được tiền thì thẻ ngân Hng mà D sử dụng bị giữ thẻ tại cây ATM. Số tiền có được từ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị D, D sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân và mua ma túy đá để sử dụng.

Chị Nguyễn Thị D sau khi chuyển tiền cho chị H đã liên lạc với chị H nhưng không được, thấy nghi ngờ nên chị D đã liên lạc với chị H qua người nH chị H thì lúc này mới biết mình đã bị lừa mất số tiền 7000.000đ, ngay sau đó chị D đã đến Công an huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa để trình báo toàn bộ sự việc.

Ngày 26/5/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Văn D khi D đang ở khu vực thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung. Thu giữ trên người Phạm Văn D:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 6, Plus (D khai nhận đó là chiếc điện thoại mà D cướp giật được của chị H vào ngày 22/5/2020);

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Itel màu đỏ, đã qua sử dụng.

- 01 (một) sim điện thoại của nH mạng mobifone, trên mặt sim có in các số và chữ: 8401 1908 1240 2795 (D khai nhận đó là chiếc sim điện thoại mà D lấy ra từ chiếc điện thoại của chị H);

- 01 (một) ví da màu đen, ví đã qua sử dụng;

- 01 (một) túi nilon màu trắng, dạng túi hình vuông, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá (D khai nhận đây là ma túy đá mà D mới mua về để sử dụng), được niêm phong ký hiệu vụ Phạm Văn D.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 29/5/2020 Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hà Trung định giá chiếc 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus đã qua sử dụng có giá trị là 2.600.000đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 1500/PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng là: 0,239gam loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 01/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Phạm Văn D về tội “Cướp giật tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tàng Trữ trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 174 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 174; điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 55; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Văn D từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 03 tội từ 05 năm 03 tháng đến 06 năm 03 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy 01 ví da, số ma túy còn lại sau giám định, 01 áo chống nắng, 01 quần bò, 01 áo phông, 01 quần bò cộc, 01 đôi dép và 01 điện thoại Itel; trả lại chiếc xe mô tô BKS 81B1-642.06 cho chị Q. Buộc trả lại cho chị D số tiền 7.000.000đồng.

Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm phát luật, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời gian theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng hơn 15 giờ ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại khu vực Cầu Cừ thuộc địa phận xã Yên Dương, huyện Hà Trung, Phạm Văn D lợi dụng sơ hở của chị Nguyễn Thị H đã có hành vi đi xe máy dùng tay cướp giật 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6, Plus trong túi áo chống nắng phía bên trái chị H đang mặc khi chị H đang điều khiển xe máy lưu thông trên đường cùng chiều với Phạm Văn D, sau đó D đã nhanh chóng tẩu thoát. Trị giá chiếc điện thoại mà D cướp được là 2.600.000đ. Sau khi Cướp giật được chiếc điện thoại của chị Nguyễn Thị H, D đã sử dụng chiếc điện thoại này truy cập vào zalo của chị H nhắn tin và lừa đảo chiếm đoạt số tiền 7000.000đ của chị Nguyễn Thị D. D đã sử dụng số tiền chiếm đoạt được của chị D vào việc tiêu xài cá nhân và ngày 26/5/2020 đi mua ma túy về sử dụng, khi D đang tìm nơi để sử dụng thì bị Công an bắt giữ, thu giữ 0,239gam Methamphetamine trong ví da của D. Như vậy hành của bị cáo đã phạm vào các tội “Cướp giật tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tàng Trữ trái phép chất ma túy”.

Đối với Phạm Văn Duy (em trai Phạm Văn D), chủ tài khoản thẻ:

100870521039, quá trình điều tra xác định: Việc D sử dụng thẻ và tài khoản thẻ của Duy để thực hiện hành vi phạm tội thì Duy không biết và cũng không được hưởng lợi ích vật chất gì. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với Duy là chính xác.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Quyền sở hữu tài sản luôn được pháp luật bảo vệ nhưng D đã không bỏ sức lao động chân chính để có được, D đã dùng phương tiện là mô tô cướp giật chiếc điện thoại của chị H khi chị đang cùng chiếc xe mô tô lưu thông trên QL1A và nhanh chóng tẩu thoát. Sau khi cướp giật được chiếc điện thoại bị cáo đã sử dụng truy cập vào zalo của chị H nhắn tin với nội dung không chính sác đến zalo của chị D để chị D chuyển tiền qua thẻ tín dụng cho D. Số tiền chiếm đoạt của chị D, D đã sử dụng tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng hết. hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn.

hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm sử dụng của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nH nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy.

Nên cần phải được xử lý nghiêm và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và cần xử cách ly D ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục là cần thiết.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự và sử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6 Plus màu Gold cùng chiếc sim điện thoại đã qua sử dụng cho chị Nguyễn Thị H, chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì thêm về bồi thường thiệt hại. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Đối với số tiền 7.000.000đồng bị cáo chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị D hiện nay chưa được bồi thường. Do vậy cần buộc D phải bồi thường số tiền này cho chị D.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 81B1-642.06 D sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội qua xác minh chiếc xe không là vật chứng của vụ án nào và là xe D mượn của chị Tống Thị Q (mẹ bị cáo, chị Q mượn chiếc xe của em trai là Tống Văn Trung) để đi có việc. Xét thấy việc D mượn xe và sử dụng làm phương tiện phạm tội chị Q không biết, chị Q có yêu cầu được trả lại. Do vậy cần trả lại chiếc xe cho chị Q là chủ sở dụng là đúng quy định.

Đối với 01 chiếc điện thoại Itel, 01 ví da màu đen, 01 áo chống nắng, 01 quần bò màu đen, 01 áo phông thể thao, 01 quần bò cộc màu xám, 01 đôi dép của bị cáo là đồ vật khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy hiện nay đã cũ, bị cáo đề nghị không nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 174; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a khoản 1 Điều 55; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Về tội danh: Bị cáo Phạm Văn D, phạm tội “Cướp giật tài sản”; “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn D: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của ba tội là: 63 (Sáu mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 26/5/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 357 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Buộc Phạm Văn D phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị D số tiền: 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc điện thoại Itel màu đỏ, 01 ví da màu đen, 01 áo chống nắng kẻ caro, 01 quần bò màu nâu đen, 01 áo phông thể thao màu đỏ trắng, 01 quần bò cộc màu xám, 02 chiếc dép màu đen vàng.

Tịch thu tiêu huỷ số Methamphetamine còn lại sau giám định có trong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Trả lại cho chị Tống Thị Q chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Jupiter, màu đen đỏ, BKS 81B1-642.06.

(Tất cả hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 24/12/2020).

- Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1, 3 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Phạm Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 350.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, đối với D và chị Q kể từ ngày tuyên án, đối với chị H và chị D kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội cướp giật tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về