Bản án 100/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 101/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. PHẠM VĂN T (Tên gọi khác: Cu r)- Sinh ngày 19 tháng 05 năm 1996 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn VD1, xã HL, huyện HV, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm X (s) và bà Phan Thị Th (s); tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị bắt ngày 16.09.2020 theo Quyết định truy nã số 09 ngày 04.09.2020 của Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu, tạm giữ ngày 16/09/2020, tạm giam ngày 17/09/2020 (có mặt)

2. LÊ H - Sinh ngày 20 tháng 09 năm 2000 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn VD1, xã HL, huyện HV, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê M (s) và bà Ngô Thị L (s); tiền án, tiền sự: chưa.

Nhân thân:

- Ngày 10.01.2019, bị Công an Đồn Khu Công Nghiệp Hoà Khánh- Liên Chiểu xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 17.11.2020 bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” tại Bản án số 95/2020/HSST.

Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

- Bị hại: Công ty TNHH MTV TTĐ; Địa chỉ: đường số 09 Khu công nghiệp Hòa Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện hợp pháp: ông Thái Ngọc Qu–chức vụ: Quản lý xưởng Công ty TNHH MTV TTĐ là người đại theo ủy quyền của ông Trần Văn Th –Giám đốc công ty (Văn bản ủy quyền số 06/UQ-TTĐ ). (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Phạm Văn Th – sinh năm 1987; trú tại: tổ 06, phường HHN, quận LC, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

2. Ông Lê Thanh V – sinh năm 1986; trú tại: thôn VD1, xã HL, huyện HV, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h00’ ngày 18.6.2020, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Phạm Văn T rủ Lê H đi trộm cắp tài sản tại các công ty trên địa bàn khu công nghiệp HK, quận LC thì H đồng ý. Phạm Văn T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 43K1- 449.22 (xe này Tuấn khai mượn của một người bạn tên Huỳnh Việt- không xác định lai lịch) chở H đi ngang qua công ty TNHH MTV TTĐ tại đường số 09 KCN Hoà Khánh, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng thì phát hiện cửa bên phụ của công ty TTĐ không có người trông coi nên dừng xe lại và cả hai đi đến dùng tay đẩy tấm cửa bằng tôn tạo nên một khe hở đủ lớn rồi cả hai đột nhập vào bên trong công ty TTĐ trộm cắp 05 búa chống mòn của máy, 02 tấm chắn máy (đều bằng kim loại) rồi đem đến địa điểm thu mua phế liệu Thuận tại đường Mê Linh, P. Hoà Hiệp Nam, Q. Liên Chiểu, do anh Phạm Văn Th (sn: 1987 làm chủ) để bán cho anh Thuận với giá 2.400.000 đồng (T và H vận chuyển hai chuyến) rồi cả hai chia nhau tiều xài hết.

Theo kết luận định giá tài sản: 05 búa chống mòn của máy bằng kim loại trị giá 5.040.000 đồng; 02 tấm chắn máy bằng kim loại trị giá 3.850.000 đồng. Tổng giá trị định giá là: 8.890.000 đồng (tám triệu tám trăm chín mươi ngàn đồng).

Đến khoảng 17h30’ ngày 20.6.2020, Phạm Văn T và Lê H tiếp tục sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 43K1- 449.22 đi đến công ty TNHH TTĐ và đột nhập vào bên trong nhà xưởng trộm cắp 01 tấm chắn máy, 01 búa chống mòn, 02 mạc bích của máy, 01 khớp nối của máy loại lớn, 01 khớp nối của máy loại nhỏ, 01 trục gắn búa, 01 quả nén hình chữ V (tất cả đều bằng kim loại) rồi đem đến địa điểm thu mua phế liệu của anh Phạm Văn Th bán với giá 1.150.000 đồng và chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản: 01 tấm chắn máy trị giá 1.925.000 đồng, 01 búa tròn bằng kim loại trị giá 1.008.000 đồng, 01 trục gắn búa trị giá 2.310.000 đồng, 01 khớp nối máy loại lớn trị giá 672.000 đồng, 01 khớp nối máy loại nhỏ trị giá 567.000 đồng, 02 mộc bích của máy trị giá 840.000 đồng, 01 quả nén hình chữ V trị giá 628.000 đồng. Tổng giá trị định giá là 7.950.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 16.840.000 đồng.

Sau khi thu mua số tài sản nêu trên, anh Phạm Văn Th đem số vật liệu sắt này đến bán lại cho Công ty TNHH TTĐ với giá 5.056.000 đồng. Qua kiểm tra, Công ty TNHH TTĐ phát hiện đây là tài sản mà mình bị mất trộm nên đến trình báo cơ quan Công an. Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T và Lê H đã khai nhận hành vi của mình.

* Xử lý vật chứng: 06 búa chống mòn của máy, 03 tấm chắn máy; 02 mạc bích của máy, 01 khớp nối của máy loại lớn, 01 khớp nối của máy loại nhỏ, 01 trục gắn búa, 01 quả nén hình chữ V (tất cả đều bằng kim loại); tiền Việt Nam 5.056.000 đồng - Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trả lại toàn bộ các tài sản trên cho Công ty TNHH TTĐ. Chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

* Về dân sự: Lê H đã bồi thường cho người liên quan Phạm Văn Th số tiền 1.800.000 đồng. Anh Th tiếp tục yêu cầu Phạm Văn T và Lê H tiếp tục bồi thường số tiền 1.750.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 104/CT- VKS ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố: Phạm Văn T (Tên gọi khác: Cu r) Lê H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Phạm Văn T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Lê H từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

* Về dân sự: Lê H đã tác động gia đình bồi thường cho người liên quan Phạm Văn Th số tiền 3.550.000 đồng. Anh Th không yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

Các bị cáo Phạm Văn T và Lê H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Phạm Văn T và Lê H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của VKS nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của đại diện bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cở sở kết luận:

Vào khoảng 17h00’ ngày 18.6.2020, Phạm Văn T và Lê H đã đột nhập vào bên trong nhà xưởng công ty TNHH MTV TTĐ lén lút chiếm đoạt 05 búa chống mòn của máy trị giá 5.040.000 đồng; 02 tấm chắn máy trị giá 3.850.000 đồng (tất cả đều bằng kim loại) rồi đem đến địa điểm thu mua phế liệu Thuận tại đường Mê Linh, P. Hoà Hiệp Nam, Q. Liên Chiểu, bán cho anh Phạm Văn Th với giá 2.400.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Cũng với thủ đoạn trên, đến khoảng 17h30’ ngày 20.6.2020, Phạm Văn T và Lê H tiếp tục đột nhập vào bên trong nhà xưởng công ty TNHH MTV TTĐ lén lút chiếm đoạt 01 tấm chắn máy trị giá 1.925.000 đồng, 01 búa tròn trị giá 1.008.000 đồng, 01 trục gắn búa trị giá 2.310.000 đồng, 01 khớp nối máy loại lớn trị giá 672.000 đồng, 01 khớp nối máy loại nhỏ trị giá 567.000 đồng, 02 mộc bích của máy trị giá 840.000 đồng, 01 quả nén hình chữ V trị giá 628.000 đồng (tất cả đều bằng kim loại) rồi đem đến địa điểm thu mua phế liệu của anh Phạm Văn Th bán với giá 1.150.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 16.840.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm bốn mươi ngàn đồng).

Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 104/CT- VKS ngày 29.10.2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư tại khu công nghiệp Hòa Khánh và tình hình trị an xã hội tại địa phương, do vậy cần phải xử lý nghiêm.

[4] Xét mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo, HĐXX thấy rằng:

Các bị cáo Phạm Văn T và Lê H đều là người đã thành niên và nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã cùng nhau hai lần thực hiện việc trộm cắp tài sản của công ty TNHH MTV TTĐ nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Trong đó, bị cáo Phạm Văn T là người rủ rê và trực tiếp sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 43K1- 449.22 chở H đi trộm cắp tài sản. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Bị cáo Hạ có nhân thân xấu, ngày 10.01.2019, bị Công an Đồn Khu Công Nghiệp Hoà Khánh- Liên Chiểu xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; ngày 17.11.2020 bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 04 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” tại Bản án số 95/2020/HSST nên đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra. HĐXX nhận định mức án của bị cáo Tuấn phải cao hơn bị cáo Hạ là và thấy đối với các bị cáo cần thiết phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa chung như ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng đề nghị là hoàn toàn phù hợp.

[5] Tuy nhiên, xét quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Lê H đã tác động gia đình bồi thường khắc phục toàn bộ thiệt hại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hội đồng xét xử sẽ vận dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.

Đối với người tên Huỳnh Việt hiện vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch và xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 43K1- 449.22, qua điều tra xác định xe này đứng tên chủ sỡ hữu là anh Lê Thanh V (sn: 1986, trú: thôn Vân Dương I, X. Hoà Liên, H. Hoà Vang, TP. Đà Nẵng), xe này anh V đã bán cho một người không xác định được lai lịch. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, đại diện bị hại công ty TNHH MTV TTĐ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Phạm Văn Th vắng mặt. Hồ sơ vụ án thể hiện, công ty công ty TNHH MTV TTĐ đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh Th khẳng định gia đình bị cáo Lê H đã bồi thường đủ số tiền 1.750.000 đồng còn lại và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án được trả lại cho chủ sở hữu theo Quyết định xử lý vật chứng số: 53/CSĐT ngày 03.09.2020 của Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu là phù hợp.

Đối với 01 file video hình ảnh camera có độ dài 01 phút 09 giây, nội dung thể hiện hình ảnh của 02 nam thanh niên đem tài sản đến bán tại điểm thu mua phế liệu Th- H cần quy trữ tại hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án thì các bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Văn T (Tên gọi khác: Cu r) Lê H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Phạm Văn T (Tên gọi khác: Cu r) 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày16.09.2020.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Lê H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Quy trữ tại hồ sơ vụ án 01 file video hình ảnh camera có độ dài 01 phút 09 giây, nội dung thể hiện hình ảnh của 02 nam thanh niên đem tài sản đến bán tại điểm thu mua phế liệu Th- H.

2. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14.

Các bị cáo Phạm Văn T và Lê H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về