TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 100/2020/DS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 289/2020/TLST-DS, ngày 08 tháng 6 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2020/QĐXXST-DS, ngày 24 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt).
Nơi cư trú: Khóm A, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Ông Lý Hoàng Q, sinh năm 1987 (vắng mặt).
Bà Đỗ Kim P (vợ ông Lý Hoàng Q) (vắng mặt). Cùng cư trú: Khóm E, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là ông Nguyễn Việt S trình bày: Vào ngày 12/11/2018, vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q có mua điện thoại trả góp tại cửa hàng của ông, yêu cầu trả góp hàng tháng, trả trong 05 tháng, mỗi tháng góp là 1.400.000 đồng vào ngày 10 hàng tháng. Bà Đỗ Kim P là người ký tên vào hợp đồng. Như vậy, số tiền vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q còn nợ ông tổng cộng là 7.000.000 đồng. Đã qua, vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q trả được 03 lần với tổng số tiền là 4.200.000 đồng, Hiện còn nợ lại 2.800.000 đồng. Từ khi còn nợ đến nay vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q không trả tiền. Ông có yêu cầu thanh toán nhiều lần nhưng vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cố tình trốn tránh việc trả nợ. Vì vậy, ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cùng trả số tiền còn nợ là 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng).
Bị đơn là bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, không cung cấp lời khai chứng cứ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Việc ông Nguyễn Việt S khởi kiện bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cùng trả tiền từ việc bà Đỗ Kim P có mua hàng hóa còn nợ nên đây là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q.
[2]. Xét về quan hệ tranh chấp: Ông Nguyễn Việt S xác định bà Đỗ Kim P có thỏa thuận mua điện thoại sử dụng còn nợ của ông tổng số tiền là 2.800.000 đồng. Từ đó, có căn cứ xác định đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại Điều 430 và Điều 440 của Bộ luật Dân sự.
[3]. Về nội dung: Ông Nguyễn Việt S xác định là ông đã thỏa thuận mua bán đối với bà Đỗ Kim P. Vào ngày 12/11/2018, vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q có mua điện thoại trả góp tại cửa hàng của ông, yêu cầu trả góp hàng tháng, trả trong 05 tháng, mỗi tháng góp là 1.400.000 đồng vào ngày 10 hàng tháng. Bà Đỗ Kim P là người ký tên vào hợp đồng. Như vậy, số tiền vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q còn nợ ông tổng cộng là 7.000.000 đồng. Đã qua, vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q trả được 03 lần với tổng số tiền là 4.200.000 đồng, Hiện còn nợ lại 2.800.000 đồng. Từ khi còn nợ đến nay vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q không trả tiền. Ông có yêu cầu thanh toán nhiều lần nhưng vợ chồng bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cố tình trốn tránh việc trả nợ. Do bà Đỗ Kim P và ông Lê Hoàng Quí là vợ chồng nên cả hai người phải có trách nhiệm cùng nhau trả số tiền còn nợ cho ông Nguyễn Việt S.
Để chứng minh cho lời trình bày của mình, ông Nguyễn Việt S đã cung cấp hợp đồng mua bán ngày 12/11/2018, nội dung thỏa thuận mua bán, hợp đồng do bà Đỗ Kim P ký tên, ngoài ra ông Nguyễn Việt S còn cung cấp phiếu thanh toán xác nhận bà Đỗ Kim P đã trả được 03 lần tổng cộng là 4.200.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền bà Đỗ Kim P còn nợ lại ông Nguyễn Việt S 2.800.000 đồng, ông Nguyễn Việt S yêu cầu là có căn cứ để chấp nhận.
[4]. Đối với bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q không có ý kiến gì về nộ i dung khởi kiện và chứng cứ do ông Nguyễn Việt S cung cấp và cũng không có yêu cầu phản tố. Do bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S và buộc bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cùng phải trả toàn bộ số tiền từ việc mua bán còn nợ là 2.800.000 đồng cho ông Nguyễn Việt S là có cơ sở.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Đ iều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy đ ịnh về án phí và lệ phí Tòa án. Áp dụng các điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S. Buộc bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cùng trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền là 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bà Đỗ Kim P, Lý Hoàng Q cùng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
Ông Nguyễn Việt S được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011692 ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Ông Nguyễn Việt S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Đỗ Kim P, ông Lý Hoàng Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 100/2020/DS-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 100/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về