Bản án 100/2018/HS-PT ngày 14/03/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 100/2018/HS-PT NGÀY 14/03/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/HSPT ngày 02/02/2018 đối với bị cáo Vũ Châu Quốc B do có kháng cáo của  bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 103/2017/HSST ngày 25/12/2017 của Tòa án nhân dân quận Phú N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Vũ Châu  Quốc B; (tên gọi khác: I), sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường Trần Văn Đ, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Quốc B; con bà: Châu Khả T; chưa có vợ con; tiền án: Tại bản án số 01/HSST ngày 06/01/2015 bị Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” đến ngày 10.02.2017 chấp hành xong hình phạt tại trại giam Phú Hòa; tiền sự: không; tạm giam: 12/8/2017. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/8/2017, Vũ Châu Quốc B điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision màu đen biển số 59F1-764.45 lưu thông đến trước nhà tại Mai Văn N, Phường Z, quận Phú N thì nhìn thấy ông Trần Ngọc Viễn Đ chạy xe bên đường theo hướng ngược lại, tay trái ông Đ có cầm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 để nghe. B nảy sinh ý định cướp giật nên cho xe áp sát anh Đ và dùng tay trái giật lấy điện thoại anh Đ đang cầm rồi tăng ga bỏ chạy về hướng đường Huỳnh Văn B. Khi giật điện thoại anh Đ tri hô và quay xe đuổi theo đến trước nhà trênđường Huỳnh Văn B, Phường Z, quận Phú N tông vào xe của B làm cả hai bị ngã xuống đường. B bị bắt giữ cùng vật chứng đưa về Công an Phường Z, quận Phú N lập biên bản xử lý.

Người bị hại ông Trần Ngọc Viễn Đ đã nhận lại tài sản là chiếc Iphone 7 màu trắng và không có yêu cầu gì đối với bị cáo.

Tại kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày23.8.2017 thì trị giá chiếc Iphone 7 đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 103/2017/HSST ngày 25/12/2017 củaTòa án nhân  dân quận Phú N, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Vũ Châu Quốc B phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 136; Điều 33; Điều 45; điểm p khoản 1Điều 46 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Vũ Châu Quốc B 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2017.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/01/2018 bị cáo Vũ Châu Quốc B làm đơn kháng cáo với nội dung xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo B, đại diện Viện Kiểm sát cấp phúc thẩm xét thấy tại phiên tòa hôm nay bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới nào. Đồng thời, mức án 04 năm tù cấp sơ thẩm đã xử là có căn cứ. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Châu Quốc B khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Phú N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Phú N, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Phú N, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/8/2017, Vũ Châu Quốc B điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision lưu thông trên đường thì nhìn thấy ông Trần Ngọc Viễn Đ chạy xe bên đường theo hướng ngược lại, tay trái ông Đ có cầm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 để nghe. B nảy sinh ý định cướp giật nên cho xe áp sát anh Đ và dùng tay trái giật lấy điện thoại anh Đ đang cầm rồi tăng ga bỏ chạy. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo B về tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 136 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã dùng thủ đoạn nguy hiểm bằng cách sử dụng xe gắn máy làm phương tiện để cướp giật tài sản, đồng thời tại bản án hình sự sơ thẩm số 01/HSST ngày 06/01/2015 bị Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), nên bị cáo bị xét xử thêm tình tiết định khung được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), đúng như bản án sơ thẩm đã nhận định. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử phạt nghiêm minh với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đảm B tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Vũ Châu Quốc B là phù hợp.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm xét bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mức hình phạt tòa sơ thẩm xét xử là đã xem xét, cân nhắc, khoan hồng cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới nào và mức hình phạt là không nặng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo B và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Bị cáo Vũ Châu Quốc B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của Vũ Châu Quốc B; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố Vũ Châu Quốc B phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 2 Điều 49; điểm c, d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Vũ Châu  Quốc B 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2017. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc:

Bị cáo Vũ Châu Quốc B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2018/HS-PT ngày 14/03/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:100/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về