Bản án 09/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 02/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 02/3/2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/HSST, ngày 18/01/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST-HS, ngày 16/02/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1985; Quê quán: Xã V, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn N (không xác định được thông tin cụ thể) và bà Bùi Thị H (đã chết); Anh chị em ruột: Có 02 người (bị cáo là con đầu); Vợ, con: Chưa có: Chức vụ chính quyền, đoàn thể: Không; Tiền sự: Không; Tiền án: có 04 tiền án, gồm: Ngày 18/08/2004 bị TAND huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 09/HSST, chấp hành xong ngày 24/7/2007; ngày 02/08/2007 bị TAND huyện T, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 66/HSST, chấp hành xong ngày 16/8/2009; ngày 12/01/2010 của TAND huyện B, tỉnh Quãng Ngãi xử phạt 03 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 03/HSST, chấp hành xong ngày 01/3/2013; ngày 23/04/2015 bị TAND huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, bản án số 15/HSST, chấp hành xong ngày 07/9/2022 nhưng chưa được xóa án tích; Nhân thân: Ngày 15/05/1999 UBND tỉnh Hà Tĩnh đưa vào Trường giáo dưỡng số II - Bộ Công an, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thời gian chấp hành 24 tháng tại Quyết định số 878/QĐ/UB-NC và ngày 29/01/2002 UBND tỉnh Hà Tĩnh đưa vào Trường giáo dưỡng, thời gian chấp hành 24 tháng tại Trường giáo dưỡng số II - Bộ Công an đóng tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo Quyết định số 204/QĐ/UB-NC. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 11/11/2022 cho đến nay. Có mặt.

- Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Hữu P, sinh năm: 1982; địa chỉ: Tổ dân phố 02, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có đơn xin xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn C, sinh năm:

1960; địa chỉ: Thôn Vĩnh Đại, xã V, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt.

- Uỷ ban nhân dân xã L, huyện H: Người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Văn Hưng, chức vụ: Chủ tịch. Người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Văn Ngọc, chức vụ: Phó chủ tịch. Có mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 10/11/2022, Trần Văn H đến nhà ông Bùi Đình C, sinh năm 1960, trú tại thôn Vĩnh Đại, xã V, mượn xe mô tô mang biển kiểm sát  38B1- 023.xx để đi mua đồ ăn tối. Được ông C đồng ý nên H điều khiển xe mô tô  38B1- 023.xx đi đến thị trấn H để mua đồ ăn. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H đi vào cửa hàng bánh mỳ “Thiên Hoàng” của chị Nguyễn Thị Hữu P, sinh năm 1982, ở tổ dân phố 02, thị trấn H, huyện H để hỏi mua bánh mỳ nhưng cửa hàng không có người trông coi. Lúc này, Trần Văn H quan sát và phát hiện có một số tiền, gồm nhiều tờ tiền có mệnh giá khác nhau để ở trong chiếc giỏ nhựa màu xanh ở trong tủ kính của chị P để trong quầy bánh mỳ nên H đã nảy sinh ý định lấy trộm số tiền trên. Trần Văn H đi lại dùng tay phải lấy trộm một xếp tiền bỏ vào túi quần rồi đi ra điều khiển xe mô tô đi về nhà. Trên đường về H lấy 100.000 đồng từ số tiền vừa lấy trộm được mua thuốc lá và hoa quả về sử dụng hết. Số tiền còn lại, H đếm được 1.200.000 đồng đưa cất giấu tại tủ đồ trong phòng ngủ của mình. Đến 18 giờ 00 ngày 11/11/2022, Trần Văn H đã đến Công an huyện H đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản và tự nguyện giao nộp số tiền 1.200.000 đồng cho cơ quan Công an (bao gồm 04 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 05 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 20 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 38B1-023.xx.

* Vật chứng vụ án, gồm: Số tiền 1.200.000 đồng thu giữ tại Trần Văn H (gồm 04 có mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ có mệnh giá 100.000 đồng, 05 tờ mệnh giá 20.000 đồng và 20 tờ mệnh giá 10.000 đồng), Cơ quan điều tra trả lại cho bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P. Còn 01 xe mô tô biển kiểm soát 38B1-023.xx cũng đã được Cơ quan điều tra trả lại chủ sở hữu ông Bùi Đình C.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P sau khi nhận lại đủ số tiền 1.300.000 đồng (gồm 1.200.000 đồng do H trả lại từ tiền trộm cắp và 100.000 đồng Trần Văn H nhờ ông Bùi Đình C bồi thường thay), nay bị hại chị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C không yêu cầu bị cáo H bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số: 08/CT-VKS-HS, ngày 17/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 38, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H mức án từ 09 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 11/11/2022).

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P đã nhận lại đủ số tiền 1.300.000 đồng. Nay bị hại chị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C không yêu cầu bị cáo H bồi thường gì thêm, nên đề nghị miễn xét.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần Văn H có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ mục 3 Công văn số 233/TANDTC-PC, ngày 01/10/2019 Tòa án nhân dân Tối Cao không truy thu số tiền 100.000 đồng mà bị cáo Trần Văn H đã tiêu xài cá nhân hết.

Bị cáo thừa nhận nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố tại phiên tòa hôm nay là đúng và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những người tham gia tố tụng: Người bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P có đơn xin vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn C vắng mắt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến quá trình làm sáng tỏ diễn biến trong vụ án nên quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tình tiết định tội, định khung, tính chất mức độ hành vi phạm tội:

- Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo tại hồ sơ vụ án; phù hợp với đơn trình báo, lời khai bị hại; biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đặc điểm số tiền bị mất trộm; phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản sự việc, kết luận định giám đinh, phù hợp với hình ảnh Camera của gia đình và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định vào khoảng 20 giờ ngày 10/11/2022 Trần Văn H đã lén lút lấy trộm 1.300.000 đồng của gia đình chị Nguyễn Thị Hữu P tại cửa hàng bánh mỳ “Thiên Hoàng” ở tổ dân phố 02, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh khi đang có tiền án về tội Cướp tài sản và tội Trộm cắp tài sản, ngày 11/11/2022 Trần Văn H đã đến Công an huyện H đầu thú, hành vi đó đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

- Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lựa chọn thời gian phạm tội vào buổi tối, lợi dụng sự sở hở của chủ sở hữu, không có người trong coi nên đã lén lút lấy trộm tiền, bị cáo hành động táo bạo và liều lĩnh, coi thường pháp luật, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên đã lén lút lấy trộm tiền của gia đình chị Nguyễn Thị Hữu P, hành vi đó làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người, gây ra sự phẫn nộ trong quần chúng nhân dân.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, nhân thân, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và tiền sự.

- Nhân thân: Bị cáo Trần Văn H có 02 nhân thân xấu: Ngày 15/05/1999 UBND tỉnh Hà Tĩnh đưa vào Trường giáo dưỡng số II - Bộ Công an, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thời gian chấp hành 24 tháng theo Quyết định số 878/QĐ/UB-NC và ngày 29/01/2002 UBND tỉnh Hà Tĩnh đưa vào Trường giáo dưỡng, thời gian chấp hành 24 tháng tại Trường giáo dưỡng số II - Bộ Công an đóng tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo Quyết định số 204/QĐ/UB-NC, nhưng bị cáo không coi đây là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẩn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú nên căn cứ các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần Văn H có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[5] Đối với các hành vi khác: Trong vụ án này có ông Bùi Đình C là chủ sở hữu xe mô tô 38B1-023.xx đã cho Trần Văn H mượn xe mô tô, nhưng ông C không biết bị cáo H sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện H không có căn cứ xử lý, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P đã nhận lại đủ số tiền 1.300.000 đồng, nay bị hại chị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C không yêu cầu bị cáo H bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về biện pháp tư pháp: Căn cứ mục 3 Công văn số: 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 Tòa án nhân dân Tối Cao không truy thu số tiền 100.000 đồng mà bị cáo Trần Văn H đã tiêu xài cá nhân hết.

[8] Về vật chứng vụ án, gồm: Số tiền 1.200.000 đồng thu giữ tại Trần Văn H (gồm 04 có mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ có mệnh giá 100.000 đồng, 05 tờ mệnh giá 20.000 đồng và 20 tờ mệnh giá 10.000 đồng) đã được Cơ quan điều tra trả lại cho bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P. Còn 01 xe mô tô biển kiểm soát  38B1- 023.xx đã được Cơ quan điều tra trả lại chủ sở hữu ông Bùi Đình C. Các vật chứng này Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện H đã xử lý đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đại diện UBND xã L tham gia phiên tòa hôm nay phát biểu thời gian qua tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, cướp tài sản, hủy hoại rừng diễn biến rất phức tạp và gia tăng, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn H là nguy hiểm cho xã hội nên đề nghị Hội đồng xét xử, xử đúng quy định pháp luật.

[12] Về thủ tục tố tụng, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều Tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm đề nghị xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về điều khoản, tội danh, mức hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp nhận định Hội đồng xét xử và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 - Về điều luật: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 38, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Trần Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 11 tháng 11 năm 2022.

- Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn H, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 02/3/2023); Bị hại chị Nguyễn Thị Hữu P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về