Bản án 09/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẮK, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: K’ L; sinh năm 1994, tại huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: thôn X, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Châu Mạ; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Công giáo; con ông: K’ J và bà: K’ A; chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: 01 tiền án: Tại bản án hình sự số 07/2020/HSST ngày 02/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã tuyên phạt K’ L 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 03/02/2021, chưa được xóa án tích; nhân thân: không; bị bắt tạm giam từ ngày 16/02/2021; có mặt.

- Bị hại: Chị H D Pang Ting, sinh năm 1997; địa chỉ: Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị H L Pang Lưk; sinh năm 1980; địa chỉ: Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

+ Anh Y L Pang Ting, sinh năm 1973; địa chỉ: Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1976; địa chỉ: Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

+ Ông Y T Nông, sinh năm 1946; địa chỉ: Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Người phiên dịch: Chị H B Uông – Công chức Tư pháp xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào sáng ngày 15/02/2021, K' L từ nhà ở thôn X, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng điều khiển xe mô tô của mình (chưa rõ BKS) đến nhà bà H DL Pang Ting ở Buôn B, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk chơi và uống rượu. Đến trưa cùng ngày, K' L mang bán chiếc xe môt tô trên cho một tiệm sửa xe ở khu vực chợ Đar Sal, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng với giá 1.200.000 đồng rồi dùng số tiền này mua bia và đồ ăn về lại nhà bà H Dl ngồi uống tiếp. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, K' L nhờ Y Ch Trei con rể bà H Dl Pang Ting chở đến nhà bà H L Pang Lưk ở cùng Buôn B và tiếp tục ngồi uống rượu với vợ chồng bà H L. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bà H L chở K' L về lại nhà bà H Dl. Khi quay lại nhà bà H Dl, K’ L thấy cả nhà đã ngủ nên K' L tự lấy rượu cần ra uống. Đến khoảng 0 giờ 30 phút ngày 16/02/2021, K' L nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Surius, màu xám đen, BKS: 47N1 - 157.24 của chị H D Pang Ting dựng bên hông nhà nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe mô tô này để làm phương tiện đi lại, rồi sau đó bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Thấy chìa khóa không có ở xe nên K' L đi vào bếp nhà chị H D lấy một cái thìa bằng kim loại để mở khóa xe. K' L đút phần cán thìa vào ổ khóa xe mô tô 47N1 - 157.24 vặn mạnh theo chiều kim đồng hồ thì mở được khóa xe. Sau đó, K' L nhẹ nhàng dắt xe ra ngoài đường, rồi nổ máy, điều khiển đi về nhà bà H L Pang Lưk. Tới nơi, K' L dựng xe trong bếp rồi tự đi lên nhà bà H L ngủ. Đến khoảng 07 giờ ngày 16/02/2021, khi K' L đang nằm ngủ tại nhà H L thì bị người dân phát hiện và trình báo lên Công an xã K.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS Ngày 22/02/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng huyện Lắk, kết luận: giá trị của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Surius, màu xám đen, BKS 47N1 - 157.24 do K' L trộm cắp tại thời điểm ngày 16/02/2021 là 16.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 16/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lắk truy tố bị cáo K’ L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để tuyên bố bị cáo K’ L phạm tội “Trộm cắp tài sản” và phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Y K’ L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng; không có ý kiến tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người làm chứng biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Lắk, Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 0 giờ 30 phút ngày 16/02/2021, K’ L đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Surius, màu xám đen, BKS 47N1 – 157.24, trị giá 16.000.000 đồng của H D Pang Ting tại Buôn B, xã K, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Hành vi của bị cáo K’ L đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản; tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, do vậy cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để trừng trị, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời qua đó, mới đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong công tác phòng, chống tội phạm.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản khi chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp “Tái phạm” theo khoản 1 Điều 53 của Bộ Luật hình sự nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bản thân là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo mới chỉ học hết lớp 5/12 nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Surius, màu xám đen, biển kiểm soát 47N1 - 157.24 số máy: E32VE024867, số khung:

3740KY011367 thuộc sở hữu của chị H D Pang Ting; cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lắk đã trao trả cho chị H D Pang Ting là phù hợp với quy định về xử lý vật chứng tại điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự nên cần công nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: chị H D Pang Ting đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo K’ L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: K’ L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam ngày 16/02/2021.

Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Công nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lắk đã trao trả cho chị H D Pang Ting chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Surius, màu xám đen, biển kiểm soát 47N1 - 157.24 số máy: E32VE024867, số khung: 3740KY011367.

Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo K’Lẽ chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về