Bản án 09/2021/HS-ST ngày 01/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2020/HSST  ngày  28/12/2020,  theo  Quyết  định đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 18/01/2021 đối với:

* Bị cáo: Nguyễn Khâm Đ, sinh ngày: 17/4/1998, tại xã C, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn 4, xã C, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông Nguyễn Khâm T, sinh năm 1971 (Đã chết), con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1975, trú tại thôn 4, xã C, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 2000, trú tại thôn 4, xã C, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Có 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2017, đứa nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/11/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Võ Hữu Đ, sinh năm1989; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trú tại: Thôn Thọ L, xã Cẩm L, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Trương Thị P, sinh năm 1983; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trú tại: Thôn Nam P, xã Cẩm L, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt)

- Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 2000; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trú tại: Thôn 4, xã Cẩm M, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 06/10/2020, Nguyễn Khâm Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38P1-223... đi từ đồi keo thuộc địa phận xã Cẩm L, huyện Cẩm X về nhà mình. Khi đi qua nhà anh Võ Hữu Đ, tại thôn L, xã Cẩm L, huyện Cẩm X, thấy cửa nhà mở nhưng không có người trông coi nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Đ dựng xe mô tô bên ngoài, đi bộ vào phòng khách thấy giữa bàn uống nước có 02 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo A31 màu đen và Nokia 105 màu đen, Đ lấy 02 chiếc điện thoại rồi đi về nhà. Khi về đến nhà, Đ cất giấu 02 chiếc điện thoại vào tủ đựng quần áo. Đến ngày 08/10/2020, Đ bán chiếc điện thoại Oppo A31 cho chị Trương Thị P (chủ cửa hàng điện thoại Quang S, tại thôn Nam P, xã Cẩm L, huyện Cẩm X) được 1.000.000 đồng, còn chiếc điện thoại Nokia 105 Đ vẫn cất giấu trong tủ. Khi bán, Đ không cho chị Phương biết về nguồn gốc chiếc điện thoại là do trộm cắp mà có. Số tiền bán điện thoại Đ sử dụng chi tiêu cá nhân hết. Khoảng một tuần sau, chị P bán chiếc điện thoại cho một người không quen biết với giá 1.100.000 đồng.

Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, anh Võ Hữu Đ đã trình báo sự việc đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên. Đến ngày 19/10/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra triệu tập Nguyễn Khâm Đ làm việc, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại Nokia 105 cho Cơ quan điều tra.

* Theo kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐG ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh kết luận:

-  Chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A31 màu đen, số IMEI: 867652040582736, máy đã qua sử dụng có trị giá 5.000.000 đồng.

- Chiếc điện thoại NOKIA 105 màu đen, số CODE: 23KIG74VN00, máy đã qua sử dụng có giá trị 300.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Nguyễn Khâm Đ chiến đoạt của anh Võ Hữu Đ là 5.300.000 đồng.

Chiếc  xe  mô  tô  biển  kiểm soát  38P1-223...,  giấy đăng  ký  xe  mang  tên

Nguyễn Khâm T (anh trai Đ), trú tại  thôn 4, xã Cẩm M, huyện Cẩm X. Khi anh T đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài đã cho vợ chồng Nguyễn Khâm Đ và Nguyễn Thị N mượn làm phương tiện đi lại.

* Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng, thu

của Nguyễn Khâm Đ;

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMHA, loại xe SIRIUS, màu vàng đen, biển kiểm soát 38P1-223..., thu của Nguyễn Khâm Đ.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A31, do chị Trương Thị P đã bán cho một người qua đường không rõ họ tên, địa chỉ, nên không thu giữ được.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã bồi thường cho bị hại anh Võ Hữu Đ số tiền 2.000.000đồng theo thỏa thuận. Nay bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 07/CT-VKSCX ngày 25/12/2020,

Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên đã truy tố Nguyễn Khâm Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn

Khâm Đ mức án từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Võ Hữu Đ chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia; Trả lại cho chị Nguyễn Thị N chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 38P1-223.... Ngoài ra, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với Viện kiểm sát. Bị cáo

xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét thấy rằng:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của

Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Khâm Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với Cáo trạng truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, vào khoảng 14 giờ ngày 06/10/2020, Nguyễn Khâm Đ đột nhập vào nhà anh Võ Hữu Đ tại thôn L, xã Cẩm L, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh chiếm đoạt của anh Đ 02 chiếc điện thoại di động, tổng trị giá theo kết luận định giá là 5.300.000đồng. Đến ngày 08/10/2020, Đ bán chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A31 cho chị Trương Thị P với giá 1.000.000 đồng. Số tiền bán điện thoại do trộm cắp mà có Đ sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Hành vi trên của Nguyễn Khâm Đ đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, việc xét xử bị cáo về tội danh, điều luật như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng nào; Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho bị hại theo thỏa thuận, bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất hành vi phạm tội và hình phạt: Mặc dù, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận

xấu trong nhân dân. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS. Vì vậy, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà cần cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội sữa chữa sai lầm, hòa nhập với cộng đồng xã hội, thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên tại phiên tòa.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho bị hại theo thỏa thuận. Nay bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38P1-223... là phương tiện bị cáo sử dụng trong quá trình phạm tội. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là anh Nguyễn Khâm T (anh trai bị cáo), trú tại thôn 4, xã Cẩm M, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (Hiện đang xuất khẩu lao động ở nước ngoài). Trước khi anh T đi xuất khẩu lao động đã cho vợ chồng bị cáo mượn làm phương tiện đi lại. Khi bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội anh T, vợ bị cáo (chị Nguyễn Thị N) không biết. Vì vậy, cần trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu, do chị Nguyễn Thị N đứng ra nhận lại theo yêu cầu.

Trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 cho anh Võ Hữu Đ.

[7] Đối với  Trương Thị Phương là người mua điện thoại nhãn hiệu OPPO A31 từ Nguyễn Khâm Đ. Quá trình điều tra xác định khi mua điện thoại chị P không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khâm Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khâm Đ 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/02/2021).

Giao bị cáo Nguyễn Khâm Đ cho Ủy ban nhân dân xã Cẩm M, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người phải thi hành án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ

02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho anh Võ Hữu Đ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng;

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị N (Trú tại: Thôn 4, xã Cẩm M, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh) 01 (Một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38P1 - 223…, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS màu vàng - đen, xe đã qua sử dụng.

(Tình trạng, đặc điểm các vật chứng được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên và Chi cục thi hành án dân sự tỉnh huyện Cẩm Xuyên)

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Khâm Đ phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-ST ngày 01/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về