Bản án 09/2021/HS-PT ngày 11/01/2021 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 09/2021/HS-PT NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 397/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị H do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 51/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện T.

Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1984 tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Ấp Q, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Con ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1961 và bà Hồ Thị H, sinh năm 1961; Bị cáo có chồng là Hoàng Văn M, sinh năm 1977; Bị cáo có 02 con (Lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/9/2019 đến ngày 03/10/2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo hiện đang tại ngoại – Có mặt;

(Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Hoàng Văn M nhưng do không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quán Cà phê 379 thuộc Ấp Q, xã L, huyện T do Nguyễn Thị H, sinh năm 1984, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú (HKTT): xã Ninh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa làm chủ và được Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện T cấp giấy chứng nhận kinh doanh số 47E800968X ngày 13/3/2019, ngành nghề kinh doanh: Cà phê sân vườn, chòi võng, nước giải khát các loại, tên hộ kinh doanh: CÀ PHÊ 379. Ngoài Nguyễn Thị H là chủ quán cà phê 379 còn có Hoàng Văn M, sinh năm 1977, nơi đăng ký HKTT: xã N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, là chồng của Nguyễn Thị H, phụ giúp Nguyễn Thị H trông coi, quản lý quán cà phê 379.

- Quán cà phê 379 bắt đầu hoạt động kinh doanh từ khoảng thời gian từ tháng 3/2019, Nguyễn Thị H thuê nhiều nhân viên nữ làm việc tại quán gồm: Thái Thị Kim H (sinh năm 2000, HKTT: ấp T, xã T, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp) và chị Trịnh Thị Y (sinh năm 1999, HKTT: xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang), Vi Thị N (sinh năm 1993, nơi đăng ký HKTT: Ấp K, xã L, huyện T, tỉnh Nghệ An); Giản Thị V (sinh năm 1983, nơi đăng ký HKTT: thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai); Lâm Thị Kim P (sinh năm 1987, nơi đăng ký HKTT: Ấp A, xã A, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp); Thị T (sinh năm 1985, nơi đăng ký HKTT: ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai). Ngoài ra, còn có một số nhân viên nữ khác nhưng không xác định rõ được nhân thân lý lịch.

- Khi đến làm việc tại quán cà phê 379, Nguyễn Thị H thỏa thuận với các nhân viên công việc làm tại quán là bưng bê nước uống cho khách với mức lương 4.000.000 đồng/tháng và bao ăn, ở tại quán. Ngoài ra, khi khách đến uống nước có nhu cầu “kích dục” và ”mua dâm” thì được các nhân viên thỏa thuận với khách như sau: 150.000 đồng/30 phút cho việc kích dục, 350.000 đồng/30 phút cho việc mua bán dâm. Nếu khách được nhân viên “kích dục” thì nhân viên thu của khách số tiền 150.000 đồng/30 phút và đưa hết cho Nguyễn Thị H, nếu khách quan hệ tình dục với nhân viên thì nhân viên thu của khách số tiền 350.000 đồng/30phút và đưa cho Nguyễn Thị H số tiền 200.000 đồng, số tiền còn lại nhân viên được giữ 150.000 đồng. Việc khách có nhu cầu kích dục hay quan hệ tình dục thì nhân viên phải báo lại cho Nguyễn Thị H biết với ký hiệu như: Nếu khách muốn quan hệ tình dục thì nhân viên báo lại với Nguyễn Thị H là khách muốn “đi thẳng”, còn “kích dục” tức là nhân viên cho khách ôm, sờ các vùng nhạy cảm trên cơ thể của nhân viên và nhân viên đấm bóp, mát-xa cho khách. Nếu khách quan hệ tình dục thì Nguyễn Thị H lấy bao cao su đưa cho nhân viên đó và ghi lại sổ sách (bằng các quyển tập) để quản lý thời gian, nhân viên tiếp khách trong thời gian 30 phút: ghi số 1, nhân viên tiếp khách trong thời gian 60 phút: ghi số 2.

- Vào ngày 30/4/2019, Trịnh Thị Y sử dụng mạng Zalo liên hệ với anh Lâm Hồng H, sinh năm 1982, nơi cư trú: ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, có tài khoản mạng xã hội Facebook tên “Lam Pham” và Trịnh Thị Y nhắn tin cho anh H biết Thái Thị Kim H và Trịnh Thị Y bị lừa bán vào quán cà phê 379 để bán dâm và bị ép quan hệ tình dục nên anh Lâm Hồng H đã tập hợp nhóm “Hiệp sĩ Nhơn Trạch” sử dụng xe ô tô 60A-351.0x đến quán cà phê 379 và đưa H, Y ra khỏi quán 379. Đồng thời, tài khoản tên “Lâm Phạm” của anh Lâm Hồng H trên mạng xã hội Facebook đăng video quá trình chuẩn bị giải cứu Trịnh Thị Y, Thái Thị Kim H và tố giác Vũ Quốc T (Công an viên UBND xã L) ép Trịnh Thị Y và Thái Thị Kim H quan hệ tình dục trái ý muốn với Vũ Quốc T gây dư luận xã hội. Sau đó, H và Y được anh H đón xe đưa về quê. Đến ngày 24/9/2019, Nguyễn Văn C (sinh năm 1967, trú tại: ấp B, xã G, huyện T) đến quán cà phê 379 vào chòi số 8 của quán thì có Vi Thị N đến hỏi Nguyễn Văn C về việc gọi nước uống “anh uống nước gì”, Công trả lời “uống bò húc”, N đi lấy nước cho C xong thì hỏi C “anh có nhu cầu gì không”, C trả lời “ở đây có dịch vụ gì”, N trả lời “ở đây nếu ôm, ấp, sờ mó thì 150.000 đồng/30 phút, nếu “đi thẳng” là 350.000 đồng/30 phút, C trả lời muốn “đi thẳng”, N báo cho Hoàng Văn M là “anh ơi, khách đi thẳng 30 phút” thì M đi vào trong phòng ngủ của vợ chồng M và H lấy bao cao su đưa cho N. Sau đó, N cầm bao cao su và đi xuống chòi số 8, N ngồi lên người Nguyễn Văn C trên võng trong chòi số 8, khi đang quan hệ tình dục thì lực lượng Công an vào bắt quả tang và thu giữ tang vật gồm: 01 áo ngực, 01 vỏ bao cao su, 400.000 đồng.

- Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị H và Hoàng Văn M là 01 phòng ngủ trong quán 379, thu giữ các vật chứng gồm: 16 bao cao su chưa sử dụng, số tiền 256.000.000 đồng, 03 quyển sổ ghi chép.

- Quá trình làm việc với bị can Hoàng Văn M thì Hoàng Văn M không thừa nhận việc đưa bao cao su cho Vi Thị N vào ngày 24/9/2019 để N bán dâm cho Nguyễn Văn C, cũng như không biết việc Nguyễn Thị H thỏa thuận với các nhân viên thực hiện việc bán dâm. Căn cứ, lời khai của 04 nhân viên làm việc tại quán gồm Vi Thị N, Giản Thị V, Lâm Thị Kim P, Thị T và lời khai của bị can Nguyễn Thị H thì Hoàng Văn M là người giúp Nguyễn Thị H trông coi, quản lý quán cà phê 379, quản lý nhân viên, là người đưa bao cao su cho nhân viên khi bán dâm cho khách, quản lý sổ sách, tiền bạc thu của khách khi Nguyễn Thị H vắng mặt. Tiếp tục áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, đấu tranh với Hoàng Văn M thì M chỉ thừa nhận giúp Nguyễn Thị H trong việc quản lý nhân viên, ghi sổ sách khi Hợp không có ở quán 379 hoặc bận công việc khác và là người đưa bao cao su cho Vi Thị N để bán dâm cho khách vào ngày 24/9/2019.

- Trích xuất nội dung 03 cuốn tập học sinh thu giữ của Nguyễn Thị H, Hoàng Văn M thì có 02 cuốn có nội dung ghi tên các nhân viên (khoảng 14 nhân viên) làm việc tại quán 379 từ tháng 3/2019 đến tháng 9/2019 nhưng không xác định được họ tên, lý lịch cụ thể. Trong 02 cuốn tập thể hiện nội dung: Số ngày nhân viên làm việc tại quán, số lượt nhân viên tiếp khách nhưng không xác định được cụ thể số lượt nhân viên kích dục cho khách, số lượt bán dâm cho khách, tên của từng nhân viên đều được ghi số 1 hoặc 2 và thời gian tiếp khách. Quá trình lấy lời khai 04 nhân viên của quán 379 là Vi Thị N, Thị T, Giản Thị V và Lâm Thị Kim P thì 04 nhân viên này không xác định rõ được số lần bán dâm cho khách và số lần kích dục cho khách nhưng khai nhận trung bình hàng ngày thì bán dâm cho khách khoảng 01 lần đến 02 lần, có ngày không bán dâm, còn việc kích dục cho khách trung bình hàng ngày từ 2-4 lần từ khi vào làm việc tại quán 379 đến trước thời điểm bị lực lượng công an vào kiểm tra. Về số ngày làm việc của 04 nhân viên này tại quán cà phê 379 như sau: Lâm Thị Kim P làm việc 129 ngày, Thị T làm việc 75 ngày, Vi Thị N làm việc 37 ngày, Giản Thị V làm việc 33 ngày. Đối với các nhân viên còn lại, quá trình điều tra họ đã nghỉ làm việc tại quán 379 nên không thu thập được lý lịch và làm việc được nên không có cơ sở để xác định được số ngày họ bán dâm, kích dục cho khách khi làm việc tại quán 379.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị H, bị cáo Hoàng Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Việc các nhân viên Thái Thị Kim H, Trịnh Thị Y, Vi Thị N, Thị T, Giản Thị V, Lâm Thị Kim P đến làm việc tại quán 379 của Nguyễn Thị H là do các nhân viên này lên mạng xã hội Facebook tìm việc làm và thấy các thông tin tuyển nhân viên làm việc tại các nhà hàng, karaoke, quán cà phê với mức lương cao nên họ dùng điện thoại gọi vào các số điện thoại ghi lại trên mạng xã hội và được những người này hướng dẫn và chở đến gặp Nguyễn Thị H và thỏa thuận với H về việc làm tại quán 379. Khi có người chở nhân viên đến và xin làm việc tại quán 379 thì Nguyễn Thị H đưa cho những người này số tiền từ 500.000 đồng - 2.000.000 đồng là chi phí xe ôm. Các nhân viên đều khai nhận không nhớ số điện thoại, nhân thân, lý lịch của những người đã đưa họ đến quán 379 của Nguyễn Thị H. Việc họ thỏa thuận công việc là kích dục, bán dâm tại quán 379 với Nguyễn Thị H là hoàn toàn tự nguyện.

- Đối với việc Trịnh Thị Y và Thái Thị Kim H tố giác Vũ Quốc T (Công an viên Ủy ban nhân dân xã L) ép quan hệ tình dục trái ý muốn với Vũ Quốc T tại quán 379. Căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án và các lời khai của Trịnh Thị Y, Thái Thị Kim H và Vũ Quốc T xác định việc Y và H quan hệ tình dục với T là tự nguyện nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý hình sự đối với Vũ Quốc T.

Tại bản án sơ thẩm số 51/2020/HS-ST ngày 28/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện T áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65; điểm c, d, g khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 06 (sáu) năm tù về tội “Chứa mại dâm”, thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 24/9/2019 đến ngày 03/10/2019; xử phạt Hoàng Văn M 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm; tịch thu xung công quỹ 96.300.000 đồng, các bị cáo đã nộp.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 11/8/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T có Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-KNPT ngày 11/8/2020 kháng nghị một phần bản án sơ thẩm về hình phạt, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị H.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận tội và khẳng định cấp sơ thẩm xử là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, bị cáo nhận thấy vi phạm của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên yêu cầu như nội dung kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Khẳng định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã nêu, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng sơ thẩm và phúc thẩm đều thực hiện đầy đủ, trình tự thủ tục theo quy định pháp luật. Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian từ ngày 01/8/2019 đến ngày 24/9/2019, Nguyễn Thị H sử dụng quán cà phê 379, tại Ấp Q, xã L, huyện T, do Nguyễn Thị H đứng tên làm chủ để thuê, thỏa thuận với 04 nhân viên nữ gồm Vi Thị N, Giản Thị V, Thị T, Lâm Thị Kim P để kích dục, bán dâm cho khách đến uống nước tại quán 379 với giá 150.000 đồng/30 phút kích dục, 350.000 đồng/30 phút quan hệ tình dục. Thu lợi bất chính số tiền 96.300.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Chứa mại dâm” là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Xét bị cáo H có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình chồng có công với cách mạng, bị cáo có hai con còn nhỏ, bị cáo đã nộp toàn bộ tiền thu lợi bất chính nên chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, giảm một phần hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn đảm bảo mức án trong khung hình phạt quy định và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung. Như đã phân tích ở trên riêng phần kháng nghị đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự là không có cơ sở nên không được chấp nhận. [4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị H.

2. Áp dụng điểm c, d, g khoản 2 Điều 327; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 05 (năm) năm tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam (từ ngày 24/9/2019 đến ngày 03/10/2019).

3. Về án phí bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HS-PT ngày 11/01/2021 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:09/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về