Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 352/2020/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 12 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXX-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đồng Thị T, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Thôn 1, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn N, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Thôn 1, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 30/11/2020 và bản tự khai ngày 14/12/2020 chị T trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Bùi Văn N thời gian năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 08 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2016 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, không thống nhất trong làm ăn kinh tế, chị và gia đình chồng chung sống không hòa thuận. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù chị đã cố gắng sống chịu đựng, gia đình thôn xóm đã nhiều lần khuyên bảo để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Hai người sống ly thân từ tháng 4/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; chị xin ly hôn anh N.

Về con chung: Có 02 con là Bùi Thu P, sinh ngày 10/12/2008 và Bùi Ngọc Q, sinh ngày 16/6/2012 hiện đang do chị nuôi dưỡng. Chị T xin tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của cả 02 cháu. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng vì chị làm nghề công nhân, mỗi tháng thu nhập kinh tế 09 triệu đồng và có nơi ăn ở ổn định, đủ điều kiện để nuôi con chung hơn anh N.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh N vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị T. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho gia đình anh N và trưởng thôn 1, xã T để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh N đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã T để trình bày lời khai; tham gia phiên họp và hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho trưởng thôn 1, xã T và Ủy ban nhân dân xã T để giao lại cho anh N. Anh N vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa XÉT THẤY

1. Về tố tụng: Anh N là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh N tự nguyện kết hôn năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T xin ly hôn anh N là có cơ sở chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Đồng Thị T được ly hôn anh Bùi Văn N.

3. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Bùi Thu P, sinh ngày 10/12/2008 và Bùi Ngọc Q, sinh ngày 16/6/2012, hiện đang do chị T nuôi dưỡng. Nay chị T xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 cháu và cháu P, cháu Q đều có nguyện vọng được ở với chị T, cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Bùi Thu P, sinh ngày 10/12/2008 và Bùi Ngọc Q, sinh ngày 16/6/2012 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh N là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T tự nguyện kết hôn với anh N năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 08 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2016 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, chị T sống chung cùng gia đình anh N không hòa thuận. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Hai người sống ly thân từ tháng 4/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T xin ly hôn anh N là có cơ sở chấp nhận; nên xử cho chị T được ly hôn anh N là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Bùi Thu P, sinh ngày 10/12/2008 và Bùi Ngọc Q, sinh ngày 16/6/2012, hiện đang do chị T nuôi dưỡng. Chị T xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 cháu đến khi đủ 18 tuổi và cháu P, cháu Q đều có nguyện vọng ở với chị T. Do đó yêu cầu của chị T là có cơ sở được chấp nhận. Cần giao cháu P và cháu Q cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đồng Thị T được ly hôn anh Bùi Văn N.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Thu P, sinh ngày 10/12/2008 và Bùi Ngọc Q, sinh ngày 16/6/2012 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009002 ngày 07 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị T đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về