Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

* Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Kim Ngọc G * Các Hội thẩm nhân dân:

1. Ông Lê Văn Thành 2. Ông Trần Văn Nhu tỉnh T.

* Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Kim Liêu – Thư ký Tòa án nhân dân huyện C, * Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T: Ông Nguyễn Thanh Bình – Kiểm sát viên.

Ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 556/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 271/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 158/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983.

- Nơi ĐKHKTT: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T.

- Trú tại: Ấp A, xã M, huyện M, tỉnh V.

* Bị đơn : Anh Trần Thanh T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T.

(Chị H có mặt; anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Nguyễn Thị H trình bày:

Do mai mối và theo sự sắp đặt của gia đình nên chị và anh T xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh T vào năm 2002.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được đến năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình, anh T sống không chung thủy, quan hệ lăn nhăn với người phụ nữ khác bên ngoài, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc. Chị và anh T sống ly thân với nhau từ tháng 5/2019 cho đến nay.

Nay chị xin được ly hôn với anh Trần Thanh T.

- Về con chung: Có 02 con chung tên là Trần Thanh G, sinh ngày 30/11/2004 và Trần Quốc K, sinh ngày 02/12/2007, hiện con chung đang sống với anh T. Khi ly hôn chị đồng ý giao 02 con chung cho anh T nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Trần Thanh T không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Chị H trình bày nguyên nhân chị xin ly hôn là do anh T gia trưởng, độc đoán, sống không có trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn, chị đã khuyên ngăn nhưng anh H không sửa đổi, còn đánh chị. Chị đã bỏ về mẹ ruột sinh sống từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Anh T không cho chị vào nhà gặp con và cũng không cho chị về nhà. Nay chị xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T; Về con chung: chị đồng ý giao 02 con chung cho anh T nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: chị xác định không có.

- Anh T: Vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần.

- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, người tham gia tố tụng nguyên đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Bị đơn vắng mặt không đảm bảo theo quy định tại khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đối với yêu cầu khởi kiện của chị H là có cơ sở để chấp nhận vì qua xác minh của Tòa án thì anh T thiếu trách nhiệm, không lo làm ăn, còn đánh chị H. Mặc dù anh T không có ý kiến với lời trình bày của chị H nhưng có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh T là có thật, anh T đã vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, anh T không tham gia tố tụng để hòa giải, hàn gắn mâu thuẫn vợ, chồng với chị H, chứng tỏ anh T không mong muốn tiếp tục duy trì hôn nhân với chị H. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H.

- Về con chung: Chị H và anh T có 02 con chung tên là Trần Thanh G, sinh ngày 30/11/2004 và Trần Quốc K, sinh ngày 02/12/2007. Khi ly hôn chị H đồng ý giao cháu G và cháu K cho anh T nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh T không tham gia tố tụng và không có ý kiến bằng văn bản về việc nuôi con chung. Tòa án tiến hành ghi lời khai của cháu G, cháu K nhưng anh không đồng ý. Theo xác minh của Tòa án thì anh T có điều kiện nuôi cháu G và cháu K. Như vậy để đảm bảo cuộc sống của cháu G, cháu K được ổn định tránh xáo trộn cần tiếp tục giao cháu G, cháu K cho anh T nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị H được quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở quyền này.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không tranh chấp không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Do đó căn cứ Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H và anh Trần Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh T ngày 23/12/2002 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay chị H và anh T phát sinh mâu thuẫn, nên chị H xin ly hôn với anh T. Theo xác nhận của ông Huỳnh Phong Lan – Trưởng Công an xã M, huyện C, tỉnh T xác nhận: “…..ông Trần Thanh T, sinh năm 1980 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T….”. Vì vậy tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T theo quy định khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Anh Trần Thanh T là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh đã vắng mặt không lý do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan là từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật bảo vệ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T trong vụ án này.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị H xác định sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được đến năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T gia trưởng, độc đoán, sống không có trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn, chị đã khuyên ngăn nhiều lần nhưng anh T không sửa đổi, còn đánh chị. Chị đã bỏ về mẹ ruột sinh sống từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Anh T không cho chị vào nhà gặp con và cũng không cho chị về nhà. Nay chị H nhận thấy tình cảm không còn nữa nên chị quyết định khởi kiện ly hôn đối với anh Trần Thanh T.

Anh T không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như nguyên nhân mâu thuẫn mà phía chị H đưa ra. Mặc dù Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần nhưng anh T từ chối nhận và bỏ mặc không có văn bản thể hiện ý kiến, nguyện vọng của mình là muốn duy trì quan hệ hôn nhân này. Chị H xác định chị và anh T đã ly thân với nhau từ tháng 5 năm 2019 cho đến nay nhưng vẫn không thể hàn gắn đoàn tụ. Đồng thời theo biên bản xác minh ngày 06/11/2020 do ông Võ Phú Q – Công an Ấp M, xã M cung cấp thì anh T thiếu trách nhiệm, không lo làm ăn, còn đánh chị H. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định anh T đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Giữa chị H và anh T có 02 con chung tên là Trần Thanh G, sinh ngày 30/11/2004 và Trần Quốc K, sinh ngày 02/12/2007. Khi ly hôn chị H đồng ý giao 02 con chung cho anh T nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa chị H xác định chưa đủ điều kiện kinh tế nuôi con chung và hiện tại các con chung đang sống ổn định với anh T. Đồng thời, theo biên bản xác minh ngày 06/11/2020, ông Võ Phú Q – Công an Ấp M, xã M cung cấp hiện tại 02 con chung đang sống chung với anh T và anh T có điều kiện kinh tế nuôi các con chung. Anh T không có ý kiến gì về việc chị H giao 02 con chung cho anh nuôi dưỡng. Do đó, để tránh xáo trộn cuộc sống và đảm bảo cuộc sống của cháu G và cháu K cần giữ nguyên hiện trạng, tiếp tục giao 02 con chung tên là Trần Thanh G, sinh ngày 30/11/2004 và Trần Quốc K, sinh ngày 02/12/2007 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không đồng ý cấp dưỡng nuôi con vì hiện tại chị chưa có công việc. Anh T không có ý kiến và yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Chị Nguyễn Thị H có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có. Anh T không có ý kiến và yêu cầu gì nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273, 278, 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Các Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: 1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Trần Thanh T.

2. Về con chung: Tiếp tục giao 02 con chung tên là Trần Thanh G, sinh ngày 30/11/2004 và Trần Quốc K, sinh ngày 02/12/2007 cho anh Trần Thanh T nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con do anh T không có yêu cầu.

Chị Nguyễn Thị H có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do không có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003992 ngày 01/10/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện C. Xem như chị H đã thi hành xong phần án phí.

5. Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Trần Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về