TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 09/2020/LĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 24/2020/TLST-LĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 về việc: “Tranh chấp bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-LĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1984; thường trú: Ấp L, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh; tạm trú: Tổ 3, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH G; địa chỉ: Tổ 4, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương;
Người đại diện hợp pháp: Ông Hoàng Văn K, sinh năm 1976; địa chỉ thường trú: Xã H, huyện H, tỉnh Nam Định; địa chỉ liên lạc: Tổ 4, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 05/8/2020); xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn kh i kiện đ ngày 26 tháng 6 năm 2020 và trong quá tr nh giải quy t v án nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày:
Vào ngày 17 tháng 6 năm 2015, bà Trần Thị T được Công ty TNHH G (trước đây là Công ty TNHH I) tuyển dụng vào làm việc theo Hợp đồng lao động số 100828/2015/HĐLĐ-ITN với thời hạn 01 năm kể từ ngày ký hợp đồng, mức lương cơ bản theo hợp đồng là 3.4000.000 đồng/tháng. Sau đó bà Hiền tiếp tục làm việc tại Công ty TNHH G (sau đây viết tắt là Công ty G) với mức lương cơ bản là 4.735.000 đồng/tháng.
Do Công ty G thường xuyên thanh toán lương hàng tháng chậm nên tháng 02/2018, bà T đã nộp đơn xin nghỉ việc và được Công ty G đồng ý. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, hàng tháng Công ty G đều trích một phần lương của bà T để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Sau khi bà T nghỉ việc, Công ty G đã trả sổ bảo hiểm xã hội cho bà T, tuy nhiên, Công ty G không thực hiện việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà để bà được hưởng thời gian đóng bảo hiểm xã hội tại Công ty G. Thực tế bà T đã làm việc tại Công ty G được khoảng 30 tháng nhưng Công ty G chỉ mới đóng cho bà T được 01 tháng tại Bảo hiểm xã hội thị xã T.
Nhận thấy việc Công ty TNHH G không thực hiện việc đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ cho bà T là xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bà, do đó bà Trần Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH G phải thực hiện việc đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và thực hiện việc chốt sổ bảo hiểm xã hội đối với thời gian bà T làm việc tại Công ty để trả lại Sổ bảo hiểm xã hội cho bà T.
Tại phiên tòa bà Trần Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không trình bày gì thêm.
- Ông Hoàng Văn K là người dại diện theo ủy quy n của bị đơn Công ty TNHH G trình bày: Thống nhất với toàn bộ lời trình bày của bà Trần Thị T về thời gian làm việc, về việc ký kết và chấm dứt hợp đồng lao động giữa Công ty G với bà Trần Thị T. Mức lương cơ bản của bà T theo hợp đồng lao động là 3.400.000 đồng/tháng, sau đó tăng lên là 4.735.000 đồng/tháng cùng với các quyền lợi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế… Hiện nay, Công ty G gặp nhiều khó khăn về tài chính nên đã không thực hiện đầy đủ việc đóng bảo hiểm xã hội cho bà T tại Bảo hiểm xã hội thị xã T. Nay bà T khởi kiện ra Tòa án thì bị đơn đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
Vì lý do bận công việc, không có thời gian tham gia tố tụng nên ông Hoàng Văn Khuyến có đơn đề nghị Toà án xét xử vụ án vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên toà phát biểu quan điểm như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn bà Trần Thị T khởi kiện bị đơn về việc yêu cầu bị đơn đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật cho bà tại Cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã T, căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp về lao động thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện. Công ty TNHH G có trụ sở chính phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã T, tỉnh Bình Dương.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Về nội dung tranh chấp:
[1] Vào ngày 17 tháng 6 năm 2015, bà Trần Thị T được Công ty TNHH G (trước đây là Công ty TNHH I) tuyển dụng vào làm việc theo Hợp đồng lao động số 100828/2015/HĐLĐ-ITN với thời hạn 01 năm kể từ ngày ký hợp đồng, mức lương cơ bản theo hợp đồng là 3.4000.000 đồng/tháng. Sau đó bà T tiếp tục làm việc tại Công ty TNHH G (sau đây viết tắt là Công ty G) với mức lương cơ bản là 4.735.000 đồng/tháng.
Do Công ty G thường xuyên thanh toán lương hàng tháng chậm nên tháng 02/2018, bà T đã nộp đơn xin nghỉ việc và được Công ty G đồng ý. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, hàng tháng Công ty G đều trích một phần lương của bà T để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Sau khi bà T nghỉ việc, Công ty G đã trả sổ bảo hiểm xã hội cho bà T, tuy nhiên, Công ty G không thực hiện việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà để bà được hưởng thời gian đóng bảo hiểm xã hội tại Công ty G. Thực tế, bà T đã làm việc tại Công ty G được khoảng 30 tháng nhưng Công ty G chỉ mới đóng cho bà T được 01 tháng tại Bảo hiểm xã hội thị xã T.
Xét thấy, việc hai bên ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đúng quy định của pháp luật, do đó HHội đồng xét xử xác định Hợp đồng lao động số 100828/2015/HĐLĐ-ITN giữa bà Trần Thị T và Công ty G có giá trị thực hiện.
Bà T cho rằng, do Công ty G thường xuyên thanh toán lương hàng tháng chậm nên tháng 02/2018, bà T đã nộp đơn xin nghỉ việc và được Công ty G đồng ý. Tại bản tự khai ngày 05/8/2020, đại diện bị đơn thừa nhận tình tình sản xuất của Công ty G gặp khó khăn nên Công ty cho bà T thôi việc theo đơn xin thôi việc của bà T. Xét lời thừa nhận của đại diện bị đơn là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, có căn cứ xác định giữa hai bên đã thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên sau khi hai bên chấm dứt hợp đồng lao động Công ty G vẫn không đóng đầy đủ, đúng quy định các loại bảo hiểm bắt buộc cho bà T là ảnh hưởng đến quyền và lơi ích hợp pháp của người lao động.
[2] Theo Công văn số 215/CV-BHXH ngày 17/8/2020 của Bảo hiểm xã hội thị xã T thể hiện: Bà Trần Thị T được Công ty TNHH G đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn tại Bảo hiểm xã hội thị xã T từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018. Tại thời điểm bà T nghỉ việc đến nay, Công ty TNHH G chưa lập hồ sơ, thủ tục gửi về cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã T để chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà T.
Xét thấy, Công ty G đã đăng ký đóng bảo hiểm cho bà T tại Cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã T và đã trích thu nhập hằng tháng của bà T nhưng không đóng đầy đủ, đúng quy định các loại bảo hiểm bắt buộc cho người lao động là không làm đúng trách nhiệm của người sử dụng lao động được quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và là hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại khoản 1, 2 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Do đó việc nguyên đơn khởi kiện buộc bị đơn phải đóng Bảo hiểm xã hội là có căn cứ chấp nhận.
[3] kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 31, 33, 35, 80, 131, 202, 219, 238, 243 và 245 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Điều 47 và 202 của Bộ luật Lao động;
- Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 50 Luật Việc làm năm 2013;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị T đối với bị đơn Công ty TNHH G về việc: Tranh chấp Bảo hiểm xã hội như sau:
- Công ty TNHH G phải đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Thị T theo quy định của pháp luật từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 03 năm 2018.
2. Về án phí:
- Bà Trần Thị T không phải nộp án phí lao động sơ thẩm.
- Công ty TNHH G phải nộp số tiền 300.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 09/2020/LĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp bảo hiểm xã hội
Số hiệu: | 09/2020/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về