Bản án 09/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 09/2020/HS-PT NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 06/2020/HS-PT ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Văn L và Dương Văn T1, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Hà Nam.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn L, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn S và bà Phạm Thị L; vợ: Nguyễn Thị H, con: có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 02/6/2019, đến ngày 11/6/2019 chuyển tạm giam, đến ngày 08/10/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh; có mặt.

2. Họ và tên: Dương Văn T1, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn X, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn S và bà Vũ Thị Q; vợ: Đỗ Thị H, con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 28/01/2019, bị Công an huyện D ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000đ về hành vi: Gây tổn hại sức khỏe của người khác; bị tạm giữ từ ngày 01/9/2019 đến ngày 04/9/2019 chuyển sang biện pháp ngăn chặn tạm giam; đến ngày 26/10/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh; vắng mặt. Ngoài ra còn có 16 bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn L là giám đốc Công ty TNHH sản xuất, thương mại N; Nguyễn Thanh S là giám đốc Văn phòng V; Công ty TNHH sản xuất, thương mại N và Văn phòng V đều có trụ sở tại xã B, huyện D, tỉnh Hà Nam và đều có chức năng cung ứng lao động. Quá trình hoạt động, Phạm Văn L và Nguyễn Thanh S xảy ra mâu thuẫn trong việc giới thiệu hai nữ công nhân vào làm việc cho Công ty TNHH ACE Antenna tại khu công nghiệp Đồng Văn II. Phạm Văn L yêu cầu Nguyễn Thanh S phải trả lại hai nữ công nhân hoặc phải thanh toán chi phí ăn ở cho hai nữ công nhân trong thời gian chờ việc nhưng Nguyễn Thanh S không đồng ý. Nguyễn Thanh S kể lại sự việc với Vũ Văn H(chú họ của S) thì H gọi điện cho L dẫn đến hai bên thách thức, đe dọa nhau.

Đến khoảng 21 giờ ngày 30/5/2019, Vũ Văn H cùng khoảng 30 người đi ô tô mang theo dao, gậy đến Công ty N đe dọa đánh L. Thấy vậy L đã gọi điện nhờ Trần Hải Đ, Vũ Văn Đ, Nguyễn Quang T đến dàn xếp nhưng Vũ Văn H vẫn tiếp tục đe dọa L. Trần Hải Đ hứa sẽ dẫn L đến gặp H nói chuyện thì nhóm của H mới đi về.

Sáng 31/5/2019, L cùng với Vũ Văn Đ và Nguyễn Quang T(đều là nhân viên Công ty N) đến Văn phòng V nói chuyện giảng hòa với S và H. Sau khi ra về thì L lại nhận được tin nhắn đe dọa, đoán là H nhắn tin nên L tiếp tục nhờ Vũ Văn Đ là bạn của H giảng hòa.

Khoảng 10 giờ ngày 01/6/2019, khi L đang ở Hòa Bình thì H tiếp tục gọi điện đe dọa và bắt L phải gặp H. Hai bên cãi vã và thách thức nhau. Sau đó L gọi điện cho Vũ Văn Đ kể lại sự việc thì Đ nói “ông cứ xuống để nói chuyện, tôi giảng hòa rồi mà”. Một lúc sau, Dương Văn T gọi điện cho L nói “mày không phải gặp thằng H nữa, mày gọi cho thằng S xem ý nó như thế nào, bảo nó nổ thẳng tiếng Việt luôn”. Sau đó L gọi điện cho S. Một lúc sau thì Vũ Văn H gọi điện cho L, hai bên tiếp tục thách thức nhau. Sau khi nghe điện thoại của H, L gọi điện cho T nói lại sự việc thì T nói “thôi việc này mày để bọn tao giải quyết, mày cứ ở đó đợi”.

Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 01/6/2019, Phạm Văn L cùng Tạ Quang D, Nguyễn Đức M, Đào Xuân Đ và Nguyễn Văn Đ đến Văn phòng Gia Long để nói chuyện về việc Vũ Văn H thách thức đánh L. Tại Văn phòng Gia Long lúc này có Đ, Đ, T, Dương Hoàng H, Dương Văn T1, Nguyễn Thành T cùng khoảng hơn 20 nam thanh niên khác đang tập trung trước cửa văn phòng. Ngoài ra Nguyễn Đức M còn gọi điện thoại cho Bùi Văn N đến Văn phòng Gia Long tập trung cùng nhóm của Đ. Sau đó cả nhóm thống nhất về tập trung tại văn phòng Công ty N đợi nhóm của Vũ Văn H đến để đánh nhau. Trước đó, Tạ Quang D gọi điện thoại cho Bùi Đức D bảo đến tập trung tại Công ty N thì D rủ thêm Bùi Văn H mang rìu, kiếm, côn đến Công ty N. Tại đây, Trần Hải Đ, Vũ Văn Đ, Nguyễn Quang T, Phạm Văn L, Dương Văn T1, Dương Hoàng H, Nguyễn Thành T, Nguyễn Minh H, Đào Xuân Đ, Nguyễn Đức M, Bùi Đức D, Bùi Văn H, Tạ Quang D, Nguyễn Văn Đ, Bùi Văn N, Bùi Văn Đ và khoảng 30 đến 40 đối tượng khác tập trung ở hai bên đường N2 trước cửa văn phòng Công ty N đợi nhóm của Vũ Văn H đến. Tiếp đó có thêm Phạm Văn H, Trịnh Văn V và một số đối tượng khác đến tham gia cùng nhóm của Đ. Vũ Văn Đ đưa tiền cho Đỗ Thành T sinh năm1998, trú tại thôn L, xã L, huyện K đi mua các đoạn tuýp kim loại về cho cả nhóm để đánh nhau. Thời điểm này, nhóm của Vũ Văn H(gồm H và khoảng 20 - 30 thanh niên khác) cũng đang tập trung tại đầu cầu Chợ Lương thuộc địa phận thôn D, xã C, huyện D mang theo tuýp kim loại, dao đi 01 xe ô tô loại 16 chỗ và 02 - 03 xe ô tô 5 chỗ đến Công ty N để đánh nhau với nhóm của Đ, Đ, T, L. Khi thấy nhóm của H đi qua và đỗ xe trên đường N2 cách Công ty N khoảng 150m thì Đ, Đ, T chỉ đạo các đối tượng trong nhóm lấy hung khí trong xe ô tô của Đ, một số xe ô tô khác và trong Công ty N, một số đối tượng nhặt gạch, đá ở ven đường rồi đi về phía nhóm của Vũ Văn H. Tuy nhiên, do có xe của lực lượng Cảnh sát đi qua nên giữa hai nhóm không xảy ra đánh nhau. Nhóm của Vũ Văn H lên xe đi về phía đường trục chính khu công nghiệp Đồng Văn rồi về quán bia của anh Nguyễn Thế A tại thôn D, xã C, huyện D ngồi uống bia. Nhóm của Đ, Đ, T, L cầm hung khí tập trung tại ngã tư thôn N, xã B, huyện D.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Dương Văn T đi xe ô tô Sonata BKS: 90A - 055.31 cùng khoảng 5 - 7 xe taxi, trên xe có khoảng 30 đối tượng do T gọi đến, tập trung tại ngã tư thôn N, xã B cùng nhóm của Đ, Đ, T, L. Khi biết nhóm của Vũ Văn H vừa bỏ đi, T thống nhất với Đ, Đ, T, L đi xuống Chợ Lương tìm đánh H. T nói “anh em nhà mình cởi áo ra cho đỡ nhầm” rồi vẫy tay ra hiệu cho mọi người và nói “tất cả anh em đi xuống Vực Vòng”. Đ, Đ, T bảo một số đối tượng trong nhóm đến quầy bán thuốc của chị Đỗ Thị Minh Q tại thôn N, xã B, huyện D mua 05 hộp khẩu trang phát cho cả nhóm đeo để tránh bị phát hiện.

Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 01/6/2019, T, Đ, Đ, T, L, T1, H, D, N, M, H, Đào Xuân Đ, Bùi Văn Đ, Đ, D, H, V, Phạm Văn H, T cùng khoảng 50 - 60 đối tượng đi khoảng 10 xe ô tô 5 chỗ (trong đó có xe ô tô Sonata BKS: 90A - 055.31 của Dương Văn T, trên xe có Tuấn và một số đối tượng khác chưa xác định được tên, tuổi; xe ô tô Huyndai BKS: 90A - 066.32 của L do Nguyễn Văn Đ điều khiển trên xe chở L, D, H, Đào Xuân Đ và 02 đối tượng khác chưa xác định được tên, tuổi; xe ô tô của Đ do Đ điều khiển trên xe chở M, N và 01 số đối tượng khác chưa xác định được tên, tuổi; xe ô tô của T1 do T1 điều khiển trên xe chở H, H, V và 01 số đối tượng khác), các đối tượng còn lại đi xe ô tô của Đ và một số xe ô tô cá nhân, xe taxi và xe máy cùng đi xuống thôn Chợ Lương, xã Y, huyện D. Đến nơi, các đối tượng đỗ xe trên Quốc lộ 38, gần cầu Chợ Lương rồi xuống xe đi bộ đến nhà trọ của Vũ Văn H ở ven Quốc lộ 38 (cách cầu Chợ Lương khoảng 300m về phía Hoà Mạc) tìm H nhưng không thấy nên cả nhóm đi bộ đến cầu Chợ Lương. Nguyễn Thành T, Bùi Văn N và một số đối tượng khác lấy dao chặt các cây tre, luồng của gia đình ông Phạm Văn B sinh năm 1954 ở thôn Chợ Lương (nhà ông B bầy bán tre, luồng ở ven QL38) thành các đoạn dài khoảng một mét đưa cho các đối tượng trong nhóm sử dụng. Khi phát hiện thấy nhóm Vũ Văn H đang ngồi uống bia tại quán của gia đình anh Nguyễn Thế A thì T hô “chúng nó kia rồi”, sau đó nhóm của T tập trung chạy đến đầu cầu Chợ Lương; một số đối tượng trong nhóm đi lên cầu để đánh nhau với nhóm của Vũ Văn H. Lúc này Vũ Văn H đang ngồi uống bia cùng Trương Văn Q, Phạm Quốc O, Trần Tiến S và khoảng 20 đối tượng khác. Khi thấy nhóm của T cầm hung khí đi lên cầu Chợ Lương thì nhóm của H hô “bọn nó sang đấy” rồi chạy lên để đánh nhóm của T. Q xách hai két bia Sài Gòn (loại chai thuỷ tinh màu xanh), một số đối tượng khác trong nhóm xách 02 - 03 két bia đặt ở đầu cầu, Vũ Văn H cầm 01 con dao quắm, các đối tượng còn lại cầm chai bia, gậy, tuýp, gạch, đá chạy lên cầu Chợ Lương. H, Q, S, O và một số đối tượng trong nhóm cầm chai bia và gạch, đá ném về phía nhóm của T. Bị ném, nhóm của T lùi lại đứng ở đầu cầu. Thấy vậy, Đ, Đ, T chỉ đạo Nguyễn Thành T và một số đối tượng trong nhóm vào quán tạp hoá của gia đình ông Vũ Văn K sinh năm 1960 ở thôn Chợ Lương bê khoảng 05 - 06 két bia Hà Nội và bia Sài Gòn(loại chai thuỷ tinh); Đ trả tiền bia cho ông K. Sau đó các đối tượng trong nhóm của T đặt các két bia tại đầu cầu rồi Đ, Đ, T chỉ đạo các đối tượng trong nhóm cầm chai bia và gạch đá ném lại nhóm Vũ Văn H. Đ hô “anh em xông lên”. Khi đi lên cầu được một đoạn, thấy có đối tượng bên nhóm của Vũ Văn H đi lên cầu cầm vật gì đó có đoạn chĩa ra như nòng súng thì Đ nói “đừng sợ, chúng nó không dám bắn đâu, dồn lại vào nhau đi”. Đ hô “bắn đi, bắn đi” và chửi nhau với nhóm của Vũ Văn H. Trong lúc hai bên ném nhau, anh Dương Văn H, sinh năm 1982 ở thôn Chợ Lương dùng điện thoại di động quay lại diễn biến sự việc thì bị một số đối tượng trong nhóm của T cầm gậy đánh, làm anh H bị thương, chảy máu vùng đầu. Ngoài ra có đối tượng trong nhóm của T còn đập vỡ 01 chậu hoa bằng sứ của gia đình anh Thạch Văn D, sinh năm 1972 ở thôn Chợ Lương. Hai nhóm tiếp tục đứng ở hai bên cầu Chợ Lương dùng gạch đá, vỏ chai bia ném nhau được khoảng 15 - 20 phút thì tổ công tác của Công an huyện D và Công an xã Y đến giải quyết, yêu cầu các đối tượng đưa phương tiện về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Y làm việc thì các đối tượng lên xe bỏ đi.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D đã tiến hành thu giữ vật chứng tại hiện trường và các vật chứng do các đối tượng giao nộp.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Dương Văn H bị thương, chảy máu vùng đầu, được đưa đến Trạm y tế xã Y băng bó vết thương và tự mua thuốc điều trị. Anh H trình bày sau khi bị đánh thì phát hiện bị mất 01 ví da bên trong có khoảng 4.000.000 đồng và 01 số giấy tờ cá nhân, tuy nhiên anh H không xác định được lý do bị mất. Ngày 19/10/2019, Phạm Văn L cùng đại diện gia đình Dương Văn T đã thống nhất thỏa thuận cho anh Dương Văn H số tiền 14.000.000 đồng; bồi thường cho gia đình ông Phạm Văn B số tiền là 1.000.000 đồng. Do thương tích nhẹ, thiệt hại tài sản không đáng kể nên anh H, ông B và anh Thạch Văn D không yêu cầu, đề nghị gì. Đối với Trần Hải Đ, Vũ Văn Đ, Vũ Văn H, Nguyễn Quang T và Bùi Đức D bỏ trốn, Cơ quan CSĐT Công an huyện D đã ra quyết định tách vụ án; khi nào bắt được sẽ tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định.

Các đối tượng khác, Cơ quan CSĐT Công an huyện D tiếp tục điều tra, xác minh để giải quyết.

Tại bản án số 80/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Hà Nam: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với T, L; điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với L, H, T; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với: T1, L, D, S, O, Văn Đ, Xuân Đ, H, H, H, V, Đ, M; Điều 91; 101 Bộ luật hình sự đối với T; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Trịnh Văn V; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo T, L, N, T, H, V, S, O, Q, T1; Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo D, H, Văn Đ, Xuân Đ, H, H, Đ, M.

Tuyên bố các bị cáo Dương Văn T, Phạm Văn L, Dương Văn T1, Tạ Quang D, Nguyễn Minh H, Bùi Văn N, Nguyễn Thành T, Trần Tiến S, Phạm Quốc O, Trương Văn Q, Bùi Văn Đ, Đào Xuân Đ, Bùi Văn H, Dương Hoàng H, Phạm Văn H, Trịnh Văn V, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Đức M phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt:

+ Dương Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/6/2019.

+ Phạm Văn L 28 (Hai mươi tám) tháng tù, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 02/6/2019 đến ngày 08/10/2019). Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

+ Dương Văn T1 25 (Hai mươi lăm) tháng tù, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 01/9/2019 đến ngày 26/10/2019). Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo.

Ngày 03/12/2019 bị cáo Dương Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; Ngày 06/12/2019, bị cáo Dương Văn T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; Ngày 11/12/2019, bị cáo Phạm Văn L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 25/12/2019 bị cáo Dương Văn T có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo. Tại Quyết định số 03/2020/HSPT-QĐ ngày 15/01/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Dương Văn T. Ngày 17/02/2020, bị cáo Dương Văn T1 có đơn rút toàn bộ kháng cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Dương Văn T1; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa phần quyết định hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Hà Nam theo hướng giữ nguyên mức hình phạt và cho hưởng án treo đối với bị cáo Phạm Văn L.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn L giữ nguyên kháng cáo và nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát tỉnh Hà Nam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Văn L và Dương Văn T1 đều trong thời hạn luật định; hình thức và nội dung đơn kháng cáo đảm bảo đúng quy định tại Điều 332 của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó đơn kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Ngày 17 tháng 02 năm 2020 bị cáo Dương Văn T1 có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Xét thấy việc rút đơn kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Dương Văn T1; Quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Hà Nam đối với bị cáo Dương Văn T1 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

[2]Về hành vi và tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn L thừa nhận hành vi phạm tội của mình được nêu trong bản án sơ thẩm là đúng. Lời khai của bị cáo Phạm Văn L là phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ cơ sở kết luận: Giữa Phạm Văn L- Giám đốc Công ty N và Nguyễn Thanh S- Giám đốc Văn phòng V xảy ra mâu thuẫn từ việc giới thiệu hai nữ lao động vào làm công nhân Công ty TNHH ACE Antenna tại khu công nghiệp Đồng Văn II. Nguyễn Thanh S đã kể lại sự việc cho Vũ Văn H. Sau đó H đã đe dọa L, hai bên thách thức đánh nhau. Trong khoảng thời gian từ 15 giờ 45 phút đến 16 giờn gày 01/6/2019, tại cầu Chợ Lương thuộc thôn Chợ Lương, xã Y, huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Hà Nam, nhóm của Phạm Văn L gồm Trần Hải Đ, Vũ Văn Đ, Nguyễn Quang T, Dương Văn T, Nguyễn Minh H, Trịnh Văn Võ, Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức M, Bùi Văn N, Đào Xuân Đ, Tạ Quang D, Bùi Văn H, Nguyễn Văn Đ, Dương Văn T1, Dương Văn D, Nguyễn Thành T, Dương Hoàng H, Phạm Văn H cùng với khoảng 50 đến 60 đối tượng khác mang theo dao, kiếm, tuýp kim loại, gạch đá, gậy tre và vỏ chai bia xô xát với nhóm của Vũ Văn H gồm Vũ Văn H và khoảng 20 - 30 đối tượng khác cũng mang theo dao, kiếm, vỏ chai bia để đánh nhau; hai bên chửi bới, thách thức và dùng gạch đá, vỏ chai bia ném nhau nhưng không ai bị thương tích. Khi Tổ công tác của Công an huyện D và Công an xã Y đến xử lý, giải quyết thì các đối tượng lên xe bỏ chạy.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn L và 17 bị cáo khác đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét kháng của bị cáo Phạm Văn L:

Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để từ đó xử phạt bị cáo Phạm Văn L 28 tháng tù là phù hợp, không nặng. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu chứng minh bị cáo có công cứu giúp người khác trong tình thế nguy hiểm được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng; gia đình bị cáo có bố đẻ, bố nuôi, bác ruột tham gia kháng chiến được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến, bố nuôi bị cáo là thương binh. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà bị cáo được hưởng. Tuy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng với mức hình phạt 28 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo là phù hợp. Do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn L không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về kháng cáo xin hưởng án treo: Xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có tình tiết mới; có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Phạm Văn L là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Dương Văn T1 rút toàn bộ kháng cáo trước khi mở phiên tòa; kháng cáo của bị cáo Phạm Văn L được Hội đồng xét xử chấp nhận nên các bị cáo Dương Văn T1 và Phạm Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Dương Văn T1; các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Hà Nam đối với bị cáo Dương Văn T1 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Phạm Văn L; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Hà Nam về phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn L.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 28 (hai mươi tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 56 (năm mươi sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Giao bị cáo Phạm Văn L cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Phạm Văn L và Dương Văn T1 không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:09/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về