Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 110/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1991. Địa chỉ: Khu 12, xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

(Anh Q có đơn xin xét xử vắng mặt) Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1995. (Vắng mặt không lý do) Địa chỉ: Khu 12, xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai tại tòa án nguyên đơn anh Nguyễn Ngọc Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Q kết hôn với chị Nguyễn Thị L ngày 13/3/2013. Trước khi kết hôn vợ chồng có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh về chung sống cùng bố mẹ đẻ anh Q tại khu 12, xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận nhưng đến khoảng năm 2016 chị L theo hội “Đưc thanh chua trơi” nên vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Gia đình hai bên có khuyên giải nhiều lần nhưng chị L không nghe và tiếp tục đi theo. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng anh có 01 con chung, cháu Nguyễn Phương H, sinh ngày 25/02/2014. Khi ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung; Về công nợ chung; Về công sức đóng góp: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung, không đóp góp công sức gì cho gia đình hai bên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, chị Nguyễn Thị L đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng của tòa án theo đúng quy định của pháp luật nhưng chị L không đến Tòa án làm việc nên không có lời khai, trình bày quan điểm gì.

Quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì.

Về nội dung vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Ngọc Q đối với chị Nguyễn Thị L. Xử cho anh Nguyễn Ngọc Q được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Ngọc Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục Nguyễn Phương Huê, sinh ngay 25/02/1014 kể từ tháng 9/2020 đến khi cháu H thành niên. Chị Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi cháu H cùng anh Q.

Về tài sản chung; Về công nợ chung; Về công sức đóng góp: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung, không đóp góp công sức gì cho gia đình hai bên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh Nguyễn Ngọc Q phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trên cơ sở xem xét ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Nguyễn Ngọc Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với chị Nguyễn Thị L, trú tại: Khu 12, xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Do vậy, xác định đây là tranh chấp về Hôn nhân gia đình theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn anh Nguyễn Ngọc Q có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn chị Nguyễn Thị L Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị L, anh Q là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Ngọc Q và chị Nguyễn Thị L có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Phú Thọ vào ngày 13/3/2013. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận. Về mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh Q và chị L: Anh Q cho rằng vợ chồng mâu thuẫn nguyên nhân là do năm 2016 chị L tham gia vào hội “Đưc thanh chua trơi”. Anh và gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều lần nhưng chị L không nghe nên vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nay anh Q xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L. Quá trình giải quyết vụa án chi ̣ L không đến Toa an lam viêc nên không có quan điểm gì. Tuy nhiên, Toa an đa tiến hanh lấy lời khai của bà Han Thi ̣Khanh (me đẻ cua chị L), thì bà Khanh cũng xác định chi ̣L tham gia hôi “Đưc thanh chua trơi” thì vợ chồng có cãi nhau, chi ̣L đa về nha bà sinh sống và rất ít thời gian ở nhà. Qua xác minh tại địa phương thì được ông Viên trương khu 12 va bà Thu đai diên Hôi liên hiêp phu nư xa Ban Nguyên cũng xác định, khoảng năm 2016 chi ̣L tham gia hôi “Đưc thanh chua trơi” nên chi ̣L đi cả ngay, không quan tâm đến chồng con nên vơ chồng xay ra mâu thuẫn. Chính quyền địa phương đã khuyên giải nhiều lần nhưng chị L không nghe. Quan điểm của Đai diên hội Liên hiêp phu nư xa Ban Nguyên, trưởng khu 12 đều đề nghi ̣Toa an giai quyết cho anh Qui đươc ly hôn vơi chi ̣ L. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh Q với chị L đã đến mức trầm trọng, không thể khắc phục được, đời sống chung thực tế đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Q là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Phương H, sinh ngày 25/02/2014. Hiện nay cháu đang ở với anh Q. Khi ly hôn anh Q đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Chị L vắng mặt nên không có quan điểm gì. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh lấy quan điểm của khu dân cư và đai diên hôi Liên hiêp phu nư xa Ban Nguyên thì đều đề nghi ̣ Toa an giao cho anh Qui trưc trưc nuôi dương chau Huê vì hiện nay chi ̣ L đi suốt ngay, không quan tâm đến gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và phát triển tâm sinh lý của cháu nên cần giao cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn Phương H kể từ tháng 9/2020 đến khi cháu H thành niên là phù hợp với Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Q vì anh Q không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung; Về công nợ chung; Về công sức đóng góp: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung, không đóp góp công sức gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Nguyễn Ngọc Q phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Ngọc Q đối với chị Nguyễn Thị L. Xử cho anh Nguyễn Ngọc Q được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

[2]. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Ngọc Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục Nguyễn Phương Huê, sinh ngay 25/02/1014 kể từ tháng 9/2020 đến khi cháu H thành niên. Chị Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi cháu H cùng anh Q.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3]. Về tài sản chung; Về công nợ chung; Về công sức đóng góp: Anh Nguyễn Ngọc Q xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung, không đóp góp công sức gì cho gia đình hai bên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Anh Nguyễn Ngọc Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận anh Q đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2019/0001784 ngày 19/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Phú Thọ.

[5]. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về