TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 45/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2018/QĐXX-ST ngày 09 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị H , sinh năm 1992; trú tại: Khối T, phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An; vắng mặt (có đơn xin xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Đàm Xuân H , sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Số nhà 30, ngõ 25, đường L, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An; hiện trú tại: T 330 – 0055 Saitama – ken, saitama – shi, Urawa-Ku, Higashita Kasagocho, 30 Japan (Nhật Bản); vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2018, Bản tự khai, Biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chị Hồ Thị H trình bày: Chị và anh Đàm Xuân H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết tại UBND phường Q, thành phố V, tỉnh Nghệ An vào ngày 04/12/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau tại nhà số 30, ngõ 25, đường L, phường Q, thành phố V. Tháng 4/2015, anh H đi du học tại Nhật Bản, qua Công ty cổ phần hợp tác giáo dục quốc tế Việt Nhật. Tháng 11/2015, chị H phát hiện anh H có quan hệ ngoài luồng với một người phụ nữ khác cùng đi du học. Năm 2017, anh H đã chuyển đến ở với người phụ nữ đó và chung sống với nhau như vợ chồng. Mặc dù chị đã nhiều lần khuyên giải để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng anh H không thay đổi dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Tháng 7/2017, anh H có về Việt Nam nhưng mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng chị không thể hòa giải được. Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể tiếp tục chung sống với anh H, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đàm Xuân H.
Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh H có 01 con chung là cháu Đàm Hồ Trâm A, sinh ngày 06/7/2014, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung và không nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía anh Đàm Xuân H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi các các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Công văn yêu cầu anh Đàm Xuân H có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử thông qua ủy thác tư pháp nhưng không có kết quả và Tòa án cũng đã thông báo cho anh H qua bà Nguyễn Thị H là mẹ của anh H nhưng hiện tại anh Đàm Xuân H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến về việc giải quyết vụ án gửi cho Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký cơ bản đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, nguyên đơn chị Hồ Thị H đã thực hiện đúng các các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Đàm Xuân H chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc anh Đàm Xuân H vắng mặt đã được Tòa án ủy thác tư pháp hợp lệ nhưng không có kết quả, đây là phiên tòa mở lần thứ hai, anh H vắng mặt không có lý do nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh H là đúng quy định tại điểm b khoản 5 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Do khoảng cách địa lý xa xôi, vợ chồng không tin tưởng nhau nên dẫn đến mâu thuẫn, hai bên không có biện pháp hàn gắn tình cảm dẫn đến vợ chồng ngày càng xa cách, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, tình cảm vợ chồng không còn, nay chị H yêu cầu ly hôn và xin được nuôi con là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử, chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị Hồ Thị H và anh Đàm Xuân H ly hôn; Về con chung vì anh H hiện không ở Việt Nam nên giao cháu Đàm Hồ Trâm Anh cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi chị H có yêu cầu; Về tài sản, miễn xét vì đương sự không yêu cầu. Chị H phải chịu án phí và chi phí ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật. Một số văn bản tố tụng, Tòa án gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và nguyên đơn chưa đầy đủ, cần rút kinh nghiệm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của nguyên đơn chị Hồ Thị H đã được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Đàm Xuân H hiện đang ở nước ngoài, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tiến hành gửi, tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Đàm Xuân H qua ủy thác Tư pháp theo đúng quy định của pháp luật. Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản đã tiến hành các biện pháp gửi tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Đàm Xuân H nhưng không đạt kết quả. Qua xác minh, bà Nguyễn Thị H là mẹ anh H cho biết anh H vẫn học tập tại Trường Wakaba, địa chỉ: T 330 – 0055 Saitama – ken, saitama – shi, Urawa-Ku, Higashita Kasagocho, 30 Japan (Nhật Bản) từ khi sang cho đến nay; anh H đã biết Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đang giải quyết ly hôn giữa vợ chồng anh; thời gian gần đây anh H có về nước và mới đi sang Nhật Bản ngày 02/01/2019 nhưng không đến Tòa án để làm việc. Vụ án thuộc trường hợp không thể hòa giải được theo khoản 2 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đây là phiên tòa mở lần thứ hai, anh H vẫn vắng mặt không có lý do, chị Hồ Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt anh Đàm Xuân H và chị Hồ Thị H.
[2]. Về quan hệ tình cảm: Tại phiên tòa, chị Hồ Thị H vắng mặt nhưng trong đơn xin xét xử vắng mặt, chị H vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với anh Đàm Xuân H. Xét thấy, chị Hồ Thị H và anh Đàm Xuân H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được hơn một năm thì anh H đi du học tại Nhật Bản. Vợ chồng sinh sống mỗi người một nơi, xa cách về địa lý, thiếu tin tưởng lẫn nhau nên dẫn đến mâu thuẫn. Hai bên không có biện pháp hàn gắn tình cảm nên vợ chồng ngày càng xa cách, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Nay, chị H xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể tiếp tục chung sống với anh H, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị Hồ Thị H được ly hôn với anh Đàm Xuân H.
[3]. Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung là cháu Đàm Hồ Trâm Anh, sinh ngày 06/7/2014, hiện đang được chị H nuôi dưỡng. Anh H đang ở nước ngoài chưa có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên cần giao cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là phù hợp. Về cấp dưỡng: Chị H chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử chưa xem xét. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết và hiện không thu thập được ý kiến, quan điểm của anh Đàm Xuân H nên chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.
[5]. Về án phí và lệ phí tố tụng khác: Chị Hồ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và lệ phí Ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 147, Điều 153, khoản 2 Điều 207, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 5 Điều 477, khoản 1, 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hồ Thị H và anh Đàm Xuân H được ly hôn.
[2] Về con chung: Giao con chung Đàm Hồ Trâm A, sinh ngày 06/7/2014 cho chị Hồ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H chưa yêu cầu nên chưa xem xét. Anh Đàm Xuân H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
[3] Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.
[4] Về án phí và lệ phí tố tụng khác: Chị Hồ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 200.000 đồng lệ phí ủy thác tư pháp, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí và lệ phí ủy thác tư pháp đã nộp là 500.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0000651 ngày 04/4/2018 và biên lai thu tiền số 0000666 ngày 11/4/2018.
[5] Về quyền kháng cáo: Chị Hồ Thị H có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Anh Đàm Xuân H đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 09/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về