TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 16/4/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình thụ lý số: 46/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 về việc “ Tranh chấp hôn nhân và gia đình, xin ly hôn ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Võ Thị T sinh năm 1999;
Địa chỉ: Tổ 33, khóm 1, thị trấn T1, huyện Tr, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Anh Nguyễn Phúc Kh, sinh năm 1998;
Địa chỉ: Tổ 4, ấp B, xã C, huyện Tr, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn ngày 19 tháng 02 năm 2019 và lời khai tại Tòa án, chị Võ Thị Tiền trình bày:
Nguyên đơn chị Võ Thị T trình bày: Vào năm 2016 chị và ông Kh quen biết tự tìm hiểu và yêu thương nhau và được sự đồng ý của hai bên gia đình tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau ngày cưới chị về sống bên gia đình anh Kh, thời gian đầu cuộc sống hạnh phúc nhưng đến khoảng đầu năm 2018 thì chị và anh Kh phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mẹ chồng đối xử khắc nghiệt dù đã cố gắng duy trì quan hệ vợ chồng để sống nhưng anh Kh lúc nào cũng nghe lời mẹ chồng nên từ đó vợ chồng xảy ra cải vả với nhau, khoảng cuối tháng 01/2018 chị bỏ về nhà cha mẹ ruột đia chỉ: Tổ 33, khóm 1, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn sống cho đến nay, trong khoảng thời gian sống ly thân chị và anh Kh không có gặp nhau nói chuyện hàn găn tình cảm vợ chồng. Nay tình cảm vợ chồng không còn chị yêu cầu được ly hôn anh Kh.
Về con chung: Có 01 con chung tên Võ Mạnh Hùng, sinh ngày 10/11/2017 khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn anh Nguyễn Phúc Kh thống nhất theo lời trình bày của chị Võ Thị T về thời gian kết hôn, về con chung, tài sản chung và nợ chung và nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn chủ yếu do bất đồng trong quan điểm sống của cả hai, chị T tự ý về nhà cha, mẹ ruột sinh sống không đồng ý sống với bên chồng nên vợ chồng xảy ra cự cải dẫn đến vợ chồng ly thân từ tháng 1/2018 đến nay. Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh, anh đồng ý ly hôn với chị T, do không còn tình cảm.
Về con chung: Anh Kh đồng ý giao cháu Võ Mạnh H, sinh ngày 10/11/2017 cho chị T nuôi dạy, anh không cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Tại phiên tòa các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Chị Tiền và anh Kh tự tìm hiểu, sau đó tổ chức đám cưới và tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng vào tháng 12 năm 2016, nhưng không đăng ký kết hôn.
Theo chị Tiền cho rằng, quá trình chung sống bên gia đình chồng, mẹ chồng hà khắc, kho khăn đồng thời do bất đồng quan điểm sống, chi và anh Kh, không thể tiếp tục chung sống đến khoảng tháng 01 năm 2018 chị và anh Kh sống ly thân cho đến nay, nay chị yêu cầu ly hôn anh Kh, anh Kh cũng đồng ý ly hôn với chị T lý do không thể tiếp tục chung sống.
Theo qui định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo qui định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh Kh không được chấp nhận mà tuyên bố không công nhận chị Tiền và anh Kh là vợ chồng.
Về con chung: Chị T và anh Kh cùng thỏa thuận thống nhất anh Kh đồng ý cho chị Tiền được tiếp tục nuôi con chung tên Võ Mạnh Hùng, sinh ngày 10/11/2017, anh Kh không phải cấp dưỡng nuôi con. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận, phù hợp pháp luật nên được công nhận.
Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Các bên cùng xác nhận không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, chị Tiền khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí theo mức án phí không giá ngạch.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội.
Tuyên bố không công nhận chị Võ Thị T và anh Nguyễn Phúc Kh là vợ chồng.
Về con chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa chị Tiền và anh Kh về việc giao cho chị Tiền được tiếp tục nuôi con chung tên Võ Mạnh H, sinh ngày 10/11/2017, anh Kh không phải cấp dưỡng nuôi con.
Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
Về án phí: Võ Thị T chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: TU/2015/002041 ngày 19/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân Tỉnh An Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 16/04/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 09/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về