Bản án 09/2019/DS-ST ngày 26/06/2019 về tranh chấp đòi tài sản trong hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 09/2019/DS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở TAND huyện Định Quán, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 149/2018/TLST-DS ngày 03 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp đòi tài sản trong hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2019/QĐST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Lu - sinh năm 1953, “vắng mặt”

Ông Lê Đình Th - sinh năm 1948, “vắng mặt”

Cùng HKTT: số 6, tổ 1, KP 114, TT. Định Quán, huyện Định Quán, Đồng Nai.

Đại diện theo ủy quyền của ông Thạch (Văn bản ủy quyền 07/5/2018)

Nguyễn Thị L - sinh năm 1953, “vắng mặt”

HKTT: Số 6, tổ 1, KP 114, TT. Định Quán, huyện Định Quán, Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Hồ Viết S - sinh năm 1959, “vắng mặt”

Nguyễn Thị L - sinh năm 1978, “vắng mặt”

Cùng HKTT: Tổ 4, khu phố Hiệp Lợi, TT. Định Quán, huyện Định Quán, Đồng Nai

Cùng chỗ ở: số 47, tổ 1, ấp Hòa Thuận, xã Ngọc Định, huyện Định Quán, Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Liệu trình bày:

Ông Thạch và bà là vợ chồng. Vợ chồng bà và ông Sơn bà Lành có quen biết với nhau nên vào ngày 30/11/2010 ông bà đã cho ông Sơn bà Lành vay số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn trả nợ vào ngày 30/3/2012. Ông Sơn bà Lành có cầm cố cho ông bà 01 bản chính Hợp đồng thuê đất tại huyện Vĩnh Cửu trồng xoài diện tích 4,9 ha. Đến thời hạn trả nợ ông Sơn bà Lành không trả được nợ cho đến ngày 06/6/2013 ông Sơn bà Lành mới trả được cho vợ chồng bà 100.000.000 đồng nợ gốc và lấy lại bản chính Hợp đồng thuê đất đã cầm cố cho ông bà. Số tiền gốc 200.000.000 đồng ông Sơn bà Lành khất hẹn khi bán được đất sẽ trả hết, còn nếu không thì đến tháng 9/2013 (tức tháng 8/2013 âm lịch) ông Sơn bà Lành bán quýt sẽ trả tiếp. Nhưng cho đến nay dù rất nhiều lần vợ chồng bà đòi nợ nhưng ông Sơn bà Lành vẫn khất hẹn. Vì vậy vợ chồng bà khởi kiện yêu cầu ông Sơn bà Lành trả số tiền vay nợ gốc còn thiếu nợ là 200.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi.

Trong bản khai bị đơn ông Hồ Viết Sơn trình bày:

Vào ngày 30/11/2010 vợ chồng ông là Hồ Viết Sơn và Nguyễn Thị Lành có mượn của ông bà Nguyễn Thị Liệu, Lê Đình Thạch số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn mượn đến ngày 30/3/2012 sẽ trả gốc, còn tiền lãi theo thỏa thuận trả từng tháng. Vợ chồng ông có thế chấp 01 Hợp đồng thuê đất tại huyện Vĩnh Cửu trồng xoài diện tích 4,9 ha (trồng từ năm 1993). Đến ngày 06/6/2013 vợ chồng ông đã trả được 100.000.000 đồng nợ gốc và đã lấy lại giấy tờ ông bà đã thế chấp vào ngày 30/10/2010. Số tiền gốc 200.000.000 đồng đến nay vợ chồng ông vẫn chưa trả được vì do là ăn khó khăn. Nay vợ chồng bà Liệu không yêu cầu vợ chồng ông trả tiền lãi mà chỉ yêu cầu vợ chồng ông trả nợ gốc 200.000.000 đồng thì vợ chồng ông đồng ý trả số tiền nợ gốc này.

Vợ ông là Nguyễn Thị Lành do công việc làm ăn thường xuyên phải đi làm xa 1 đến 2 tuần mới về nhà vào ngày chủ nhật và dịp lễ tết nên không thể làm thủ tục ủy quyền được. Nhưng vợ chồng ông thống nhất trả nợ cho ông Thạch bà Liệu số tiền 200.000.000 đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Lành vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật t tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia t tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các hoạt động tố tụng về xác định quan hệ pháp luật, tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu theo thẩm quyền, thủ tục gửi, cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng tất cả đều đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử đã thực hiện đứng và đầy đủ các phần của phiên tòa sơ thẩm, phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần tranh tụng tại phiên tòa. Thư ký phiên tòa thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Xem xét theo yêu cầu của nguyên đơn, cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ nhận thấy: Theo giấy vay tiền ngày 30/11/2010 mà bà Nguyễn Thị Liệu cung cấp cho Tòa án thể hiện giữa bà Nguyễn Thị Liệu và ông Lê Đình Thạch có cho ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành vay số tiền 300.000.000 đồng trong đó các bên đã thỏa thuận được với nhau về việc mượn tiền và thời điểm trả nợ. Khi vay tiền, ông Sơn và bà Lành có cầm cố cho ông bà 01 bản chính Hợp đồng thuê đất tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai trồng xoài với diện tích 4,9ha. Đến ngày 06/6/2013, ông Sơn và bà Lành trả cho bà Liệu và ông Thạch số tiền 100.000.000 đồng tiền nợ gốc và lấy lại bản chính Hợp đồng thuê đất mà ông Sơn và bà Lành đã cầm cố. Số tiền còn lại là 200.000.000 đồng ông Sơn và bà Lành không trả theo thỏa thuận. Ông Sơn cũng thừa nhận là vợ chồng ông có vay của bà Liệu, ông Thạch số tiền 300.000.000 đồng. Đến ngày 06/6/2013, ông Sơn và bà Lành trả cho bà Liệu và ông Thạch số tiền 100.000.000 đồng tiền nợ gốc và lấy lại bản chính Hợp đồng thuê đất mà ông Sơn và bà Lành đã cầm cố. Hiện nay, số tiền còn lại là 200.000.000 đồng do ông Sơn và bà Lành làm ăn khó khăn nên chưa trả cho bà Liệu, ông Thạch được. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Liệu và ông Thạch là có cơ sở, đúng theo Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành trả số tiền gốc 200.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Liệu và ông Lê Đình Thạch. Án phí: Ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật. Những kiến nghị: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và bị đơn đã được hiệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về thời hiệu khởi kiện, quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của đương sự: Theo tài liệu “Giấy vay tiền” ghi ngày 30/11/2010 do nguyên đơn cung cấp; theo nội dung đơn khởi kiện 29/10/2018 bà Liệu xác định 2 bên thỏa thuận thời hạn trả nợ vào ngày 30/3/2012. Đến thời hạn trả nợ ông Sơn bà Lành không trả được nợ cho đến ngày 06/6/2013 ông Sơn bà Lành mới trả được cho vợ chồng bà tiền nợ gốc 100.000.000 đồng. Số tiền nợ gốc 200.000.000 đồng ông Sơn bà Lành khất hẹn khi bán được đất sẽ trả hết, còn nếu không thì đến tháng 9/2013 (tức tháng 8/2013 âm lịch) ông Sơn bà Lành bán quýt sẽ trả tiếp. Nhưng cho đến nay dù rất nhiều lần vợ chồng bà đòi nợ nhưng ông Sơn bà Lành vẫn khất hẹn. Vì vậy vợ chồng bà khởi kiện yêu cầu ông Sơn bà Lành trả số tiền vay nợ gốc còn thiếu là 200.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi.

Trong quá trình tố tụng bà Liệu và ông Thạch (đã ủy quyền cho bà Liệu) xác định không tranh chấp về hợp đồng vay tài sản mà chỉ yêu cầu ông Sơn bà Lành trả số tiền nợ gốc còn thiếu là 200.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi. Do đó áp dụng điểm b, khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012, Điều 184, 185 của BLTTDS 2015 xác định đây là tranh chấp về đòi lại tài sản thông qua giao dịch dân sự vay tài sản và không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Đồng thời cũng xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đòi tài sản trong hợp đồng vay tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS năm 2015. Căn cứ Điều 68 của BLTTDS xác định bà Nguyễn Thị Liệu, ông Lê Đình Thạch là nguyên đơn, ông Hồ Viết Sơn, bà Nguyễn Thị Lành là bị đơn.

[3] Về đường lối giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Liệu và ông Lê Đình Thạch khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành phải có trách nhiệm trả cho bà Liệu ông Thạch số tiền vay nợ gốc còn thiếu là 200.000.000 đồng.

Chứng minh cho yêu cầu khởi kiện bà Liệu cung cấp bản chính Giấy vay tiền ghi ngày 30/11/2010 có chữ ký của ông Hồ Viết Sơn bà Nguyễn Thị Lành. Ông Sơn cũng thừa nhận là vợ chồng ông có vay của bà Liệu, ông Thạch số tiền 300.000.000 đồng. Đến ngày 06/6/2013, ông Sơn và bà Lành trả cho bà Liệu và ông Thạch số tiền 100.000.000 đồng tiền nợ gốc và lấy lại bản chính Hợp đồng thuê đất mà ông Sơn và bà Lành đã cầm cố. Hiện nay, số tiền còn lại là 200.000.000 đồng do ông Sơn và bà Lành làm ăn khó khăn nên chưa trả được. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Liệu và ông Thạch là có cơ sở. Căn cứ vào Điều 471, 472, 473, 474, 478 của Bộ luật dân sự năm 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả số tiền gốc 200.000.000 đồng cho nguyên đơn.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Liệu và ông Lê Đình Thạch là người cao tuổi nên được miễn tạm ứng án phí và án phí DSST.

Ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành phải chịu 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) án phí DSST. Ông Sơn bà Lành có đơn xin miễn giảm án phí DSST và được chính quyền địa phương xác nhận có hoàn cảnh khó khăn nên giảm 50% án phí DSST cho ông Sơn bà Lành. Ông Sơn bà Lành còn phải chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) án phí DSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 26; Điều 68; Điều 184, 185 của BLTTDS 2015; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1 Điều 228, Điều 146, 147, 220, 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm b, khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HDTP ngày 03/12/2012;

Áp dụng Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 219, Điều 471,472, 473, 474 BLDS 2005, Điều 357, 468, 688 BLDS 2015; Luật người cao tuổi số 39/2009/QH12 ngày 23/11/2009; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1) - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp đòi tài sản trong hợp đồng vay tài sản” của bà Nguyên Thị Liệu, ông Lê Đình Thạch đối với ông Hồ Viết Sơn, bà Nguyễn Thị Lành.

Buộc bà ông Hồ Viết Sơn, bà Nguyễn Thị Lành hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Liệu, ông Lê Đình Thạch số tiền vay nợ gốc còn thiếu là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2) - Về án phí: Bà Nguyễn Thị Liệu và ông Lê Đình Thạch là người cao tuổi nên được miễn tạm ứng án phí và án phí DSST.

Ông Hồ Viết Sơn và bà Nguyễn Thị Lành phải chịu 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) án phí DSST. Ông Sơn bà Lành có đơn xin miễn giảm án phí DSST và được chính quyền địa phương xác nhận có hoàn cảnh khó khăn nên giảm 50% án phí DSST cho ông Sơn bà Lành. Ông Sơn bà Lành còn phải chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) án phí DSST.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Báo cho nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/DS-ST ngày 26/06/2019 về tranh chấp đòi tài sản trong hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:09/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về