Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2018/TLST- HN&GĐ ngày 18 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số98/2018/QĐST- N&GĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương T. Sinh năm 1982 (Có mặt). Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.  Chỗ ở hiện nay: Thôn Quyết Tiến, xã Quỳnh Lập, thị xã Hoàng Mai - Nghệ An.

Bị đơn: Anh Trần Đ, sinh năm: 1982 (Vắng mặt). Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Hiện đang chấp hành án tại trại giam T91, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, nguyên đơn chị Trương T trình bày:

Chị và bị đơn anh Trần Đ kết hôn ngày 22/3/2006 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Quỳnh Lưu (nay là xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An) trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Ngày 01/4/2010 anh Đoàn bị bắt do tham ô tài sản và bị xử lý chấp hành hình phạt tù tại trại giam T91, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh Trần Đ.

Vợ chồng có 01 con chung là Trần Đ, sinh ngày 15/01/2009 hiện đang ở với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, riêng và nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai, bị đơn anh Trần Đ trình bày: Anh thống nhất thời gian, điều kiện kết hôn như chị Trương T đã trình bày ở trên. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh Tc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 10/2009 cho đến nay. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, chị Trương T xin ly hôn, anh cũng nhất trí.

Vợ chồng có 01 con chung, họ tên, ngày tháng năm sinh như chị Trương T đã trình bày. Con chung hiện đang ở với chị T, ly hôn chị T xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con chung, anh cũng nhất trí.

- Về tài sản chung, riêng và nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị :

- Xử: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Trương T và anh Trần Đ.

- Giao con chung Trần Đ, sinh ngày 15/01/2009 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Đoàn vì chị T chưa yêu cấu.

Về tài sản và nợ chị T, anh Đ không yêu cầu giải quyết nên không xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Trương T với bị đơn anh Trần Đ.

Anh Đ hiện đang chấp hành án tại trại giam T91, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh nên sau khi thụ lý, Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai đã ra quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh giao trực tiếp anh Đ thông báo thụ lý vụ án, nội dung yêu cầu giải quyết của chị T và yêu cầu anh Đ viết bản tự khai là đúng pháp luật theo quy định tại điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Đ hiện đang chấp hành án và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Do vậy Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử không tiến hành hòa giải là đứng pháp luật theo quy định tại khoản khoản 2, khoản 4 điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa anh Trần Đ vắng mặt nhưng đã có lời trình bày đề nghị xét xử vụ án vắng mặt nên Hội đồng xét xử không hoãn phiên tòa mà tiếp tục xét xử vụ án là đúng luật theo quy định tại khoản 1 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương T và anh Trần Đ lấy nhau có đăng kết hôn ngày 22/3/2006 tại UBND xã Q (nay là xã Q, thị xã Hoàng Mai) trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định. Cuộc sống chung do tính tình không hợp, anh Đ vi phạm pháp luật phải chấp hành hình phạt tù từ tháng 10 năm 2009 cho đến nay dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng. Ban thân chị T và anh Đ cũng tự nhận thấy được tình cảm vợ chồng đã thực sự trầm trọng, không còn quan tâm đến nhau nữa. Anh Đ đang chấp hành hình phạt tù, vắng mặt tại phiên tòa nghĩ nên áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trương T được ly hôn anh Trần Đ.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Ly hôn chị T xin được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung là Trần Đ, không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con, anh Đ cũng nhất trí là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, điều kiện hoàn cảnh kinh tế của anh chị, nguyện vọng và quyền lợi mọi mặt của con chung sau ly hôn nên chấp nhận.

Về tài sản chung, riêng và nợ : Chị T, anh Đ thống nhất tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên không xét.

Về án phí ly hôn sơ thẩm chị T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nạp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 điều 56; điều 81; điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xử: Cho chị Trương T được ly hôn anh Trần Đ.

Về con: Giao con chung là Trần Đ, sinh ngày 15/01/2009 cho chị T được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Đ vì chị T chưa yêu cầu. Anh Đ có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm cản trở.

Về tài sản chung, riêng và nợ: Chị T, anh Đ thống nhất tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm chị T phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0004562 ngày 18/9/2018.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn nói trên kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về