TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 09/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở TAND huyện H, tỉnh Quảng Trị tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:85/2018/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:08/2018/QĐXX-ST ngày 10 tháng 10 năm 2018 và quyết định hoãn phiên Tòa số: 09/2018/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Th. Nơi cư trú: Khu phố 1B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Anh Đ. Nơi cư trú: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trương Thị Th trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Anh Đ tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị vào năm 2008. Qua quá trình chung sống với nhau thì nảy sinh ra mâu thuẩn không thể khắc phục được do tính tình không hợp nhau, hay cải vả. Năm 2016 chị có nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn nhưng vợ chồng đoàn tụ, để cho anh Đ có cơ hội thay đổi bản thân nhưng anh Đ vẫn không thay đổi bản tính. Chị và anh Đ đã sống ly thân không có quan hệ qua lại gì với nhau. Hiện nay cuộc sống chung của vợ chồng không còn tình cảm và không chung sống với nhau nữa nên chị Trương Thị Th yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Anh Đ.
Về con chung: Vợ chồng có 02 cháu tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 08/7/2009, cháu Nguyễn Hải Qu; sinh ngày 15/11/2012, chị Th có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai cháu và yêu cầu anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai anh Nguyễn Anh Đ trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Th có đăng ký kết hôn tại UBND xã H vào năm 2008. Nguyên nhân vợ chồng xảy ra mâu thuẩn chủ yếu do kinh tế khó khăn; anh không muốn ly hôn, muốn con cái sống có đầy đủ cha mẹ nếu vợ tôi cương quyết ly hôn thì yêu cầu tòa án giải quyết theo nguyện vọng của vợ.
Về con chung: Vợ chồng có 02 cháu tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 08/7/2009, cháu Nguyễn Hải Qu; sinh ngày 15/11/2012. Anh Đ đồng ý giao cả hai cháu cho chị Th nuôi dưỡng; anh cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng.
Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.
Đối với anh Nguyễn Anh Đ, Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 85/2018/TB-TA , thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 86/2018/TB-TA và thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 87/2018/TB-TA, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Đ vẫn cố tình vắng mặt không có lý do.
Tại phiên Tòa hôm nay, chị Trương Thị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn đối với anh Nguyễn Anh Đ; chị Th có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai cháu và yêu cầu anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng; Về tài sản chung: không yêu cầu tòa án giải quyết.
Tại phiên Tòa, đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Việc thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình số:85/2018/TLST- HNGĐ ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện H là đúng thẩm quyền, ra thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa đúng thời hạn luật định. Công tác thu thập chứng cứ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký là đúng theo trình tự thủ tục được quy định tại Điều 48,49,51 Bộ luật tố tụng dân sự.
Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự: Nguyên đơn chị Th đã thực hiện đầy đủ thủ tục được quy định tại Điều 70,71; bị đơn anh Đ chưa thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Kiểm sát viên đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vắng mặt bị đơn anh Đ và đề nghị xử cho chị Th được ly hôn anh Đ; giao cả hai cháu H và Qu cho chị Th nuôi dưỡng và anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Sau khi xem xét yêu cầu của nguyên đơn về việc giải quyết tranh chấp về “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu giải quyết của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Trị.
[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 85/2018/TB-TA , thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 86/2018/TB-TA và thông báo về phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 87/2018/TB-TA, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Đ vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Vì vậy áp dụng khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện H xử vắng mặt anh Nguyễn Anh Đ.
[3]. Về nội dung vụ án: Năm 2008 chị Trương Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ kết hôn hợp pháp và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, do tính tình không hợp nhau hay cải vả lẫn nhau, không quan tâm nhau. Vào năm 2016 vợ chồng đã đoàn tụ tại Tòa án nhưng anh Đ vẫn không thay đổi bản tính để khắc phục mâu thuẩn vợ chồng và hiện nay cả hai vợ chồng đã sống ly thân không quan hệ gì với nhau.
Tại biên bản xác minh ngày 13/9/2018 thì về phía Hội liên hiệp phụ nữ xã H xác nhận: Chị Trương Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ có đăng ký kết hôn tại UBND xã H vào năm 2008. Hiện nay chị Th và anh Đ đã sống ly thân không có quan hệ qua lại với nhau.
Vì vậy, mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị Th là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[4]. Về con chung: Vợ chồng có 02 cháu tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 08/7/2009, cháu Nguyễn Hải Qu; sinh ngày 15/11/2012. Hiện nay cả hai cháu đang ở với chị Th và chị Th cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai cháu. Anh Đ cũng đồng ý giao cả hai cháu cho chị Th nuôi dưỡng; anh cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng; cháu Nguyễn Ngọc H có ý nguyện vọng ở với chị Th. Vì vây, cần giao cả hai cháu cho chị Th nuôi dưỡng và buộc anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng là có căn cứ.
[5]. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[6]. Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS và Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc chị Trương Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng các Điều 56, Điều 58 và Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 35, khoản 2 Điều 227 và Điều 147, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự xử;
+ Về hôn nhân: Chị Trương Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Anh Đ.
+ Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 08/7/2009 và cháu Nguyễn Hải Qu; sinh ngày 15/11/2012 cho chị Th nuôi dưỡng; buộc anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hải Qu mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Qu thành niên và có khả năng lao động.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở.
2. Về án phí: Buộc chị Trương Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0006368 ngày 25/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị Trương Thị Th đã nộp đủ án phí dân sự sở thẩm. Buộc anh Nguyễn Anh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ. Anh Đ chưa nộp đủ án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Chị Trương Thị Th có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Anh Đ có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án 09/2018/HNGĐ-ST ngày 16/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 09/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về