Bản án 09/2017/HS-ST ngày 09/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 09/2017/HS-ST NGÀY 09/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2017, tại Nhà văn hóa bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm lưu động vụ án hình sự thụ lý số: 07/2017/HS-ST ngày 13 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Lò Văn C (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 17 tháng 7 năm 1967; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: bản B, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Chỗ ở hiện nay: bản B, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lò Văn T (Đã chết); Con bà: Lò Thị L sinh năm 1927; Bị cáo có vợ: Phan Hồng M (Đã ly hôn), bị cáo có 01 con sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: không có; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 29/6/2017, Lò Văn C đi bộ từ nhà ở bản Bó Ẩn, phường C, thành phố Sơn La ra đón xe Bus đến huyện Mai sơn để thăm người thân. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Chơ ngồi chờ xe Bus ở điểm chờ Cầu Treo, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn thì gặp một người nam thanh niên tên là H nhưng không biết tuổi và địa chỉ. Sau khi lên xe, qua nói chuyện H cho C 01 gói Hêrôin đựng trong gói thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long. C cất bao thuốc lá H cho vào túi quần bên phải đang mặc, khi về đến khu vực tổ 1, phường Quyết Tâm, C xuống xe Bus đi tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị Công an thành phố Sơn La phát hiện, lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Cơ quan Công an thành phố Sơn La thu giữ được vật chứng gồm: 01 gói ma túy đựng trong gói thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long (Theo lời khai của Chơ là Hêrôin), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen đã qua sử dụng, 01 lọ Novocain 3%, 20.000đ  (Hai mươi ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Ngày 29/6/2017, Công an thành phố Sơn La tiến hành cân tịnh vật chứng kết quả gói ma túy thu giữ của bị cáo có trọng lượng 0,16 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu LC1.

Tại Kết luận giám định số 697/KLMT ngày 02/7/2017 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu LC1 là chất ma túy, loại chất Hêrôin; Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định”.

Tại bản Cáo trạng số 125/KSĐT ngày 12 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn C về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn C  khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h,i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14;  khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lò Văn C từ 24 (Hai tư) tháng đến 26 (Hai mươi sáu) tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự do bị cáo là người mắc nghiện ma túy, thu nhập thấp, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, bị cáo không có tài sản riêng.

Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01(Một) chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn C tàng trữ trái phép chất ma túy bắt ngày 29/6/2017; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + một mảnh ni lon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng”,  mặt  sau  có  chữ  ký  của  thành  phần  tham  gia  niêm  phong,  01  ống Novocain 3% chưa qua sử dụng; Trả bị cáo 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen, số Imei 352219023407224 và 20.000 (Hai mươi ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo Điều 41 BLHS, điểm a,đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo phải nộp 200.000đ  (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Ý kiến của bị cáo nhất trí như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo tại phiên toà. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào Nghị án, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt để sớm được trở về với gia đình và cộng đồng và làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Vào ngày 29/6/2017, Lò Văn C đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,16 gam Hêrôin, mục đích sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Công thành phố Sơn La kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Lò Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm ”.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Lò Văn C với số lượng tàng trữ Hêrôin không lớn, mục đích tàng trữ ma tuý là để sử dụng cho bản thân, do bị cáo là người đã và đang bị mắc nghiện ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo đã được giáo dục, biết rõ tác hại của ma tuý đối với đối với con người và đời sống xã hội, song vẫn cố tình phạm tội. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do cố ý, nên cần áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù đối với bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo Lò Văn C: không có tiền án, không có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, cần áp dụng theo hướng có lợi cho người phạm tội quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, cần áp dụng điểm h,i  khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14;  khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét, quyết định mức hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo.

Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung, nhất là công tác phòng, chống tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay. Bị cáo đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Song, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc 0,16 gam Hêrôin, bị cáo khai nhận do bị cáo được một người tên H cho trên xe Bus để sử dụng, C không biết tuổi và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[4]. Về vật chứng vụ án: Đối với số vật chứng 0,16g Hêrôin ký hiệu LC1 gửi đi giám định và không hoàn lại; Đối với 01 chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn C tàng trữ trái phép chất ma túy bắt ngày 29/6/2017; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + một mảnh giấy nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng”, mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, 01 lọ Novocain 3%, cần tiêu hủy theo điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen đã qua sử dụng, 20.000đ (Hai mươi ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là tài sản của bị cáo, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm h,i  khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lò Văn C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam (ngày 29/6/2017).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01(Một) chiếc phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn C tàng trữ trái phép chất ma túy bắt ngày 29/6/2017; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + một mảnh ni lon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng”, mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, tiêu hủy 01 ống Novocain 3% chưa qua sử dụng; Tuyên tạm giữ 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen, số Imei 352219023407224 và 20.000 (Hai mươi ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để đảm bảo thi hành án (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2017 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo Lò Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2017/HS-ST ngày 09/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về