TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐG, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 14/07/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 14 tháng 7 năm 2023 tại hai điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại Hội trường xét xử của Tòa án nhân dân huyện ĐG tỉnh Kon Tum gồm có Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên; Điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an huyện ĐG bị cáo Ngô Văn Kh, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Ngô Văn Kh; tên gọi khác: không; sinh ngày 27/01/1977 tại Hải Phòng; nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Tổ 15, ấp 6, xã BC, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; chổ ở hiện nay: Thôn 16/5, thị trấn ĐG, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn Phú (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Đỏng ( Đã chết) bị cáo sống như vợ chồng với chị Mai Thị Ngà và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2014.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 27 tháng 02 năm 2023 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Anh A Ch; sinh năm 1993 Trú tại: Thôn Peng sal Peng, xã Đăk Pét, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum. (Có mặt tại phiên tòa).
- Người làm chứng:
+ Ông Trương Thanh T; sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn Đông Xá, xã HĐ, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện ĐG, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt, Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
+ Chị Y X; sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn Peng Siel, xã Đăk Pek, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum(Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
+ Chị Y S; sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn Peng Siel, xã Đăk Pek, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum( Vắng mặt, Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ông A P; sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn Peng sal Peng, xã Đăk Pek, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum(Có mặt tại phiên tòa).
+ Ông A M; sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn Peng Sal Peng, xã Đăk Pek, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum( Vắng mặt, Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
+ Ông A Th1; sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn Peng Sal Peng, xã Đăk Pek, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum(Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 26/02/2023, A Ch (sinh năm: 1994) cùng với A M (sinh năm: 1992), A P (sinh năm: 1987), A Sỹ (sinh năm: 1998), A Th (sinh năm: 1999), A T (sinh năm: 1992), A Pho (sinh năm: 1980), A Th1 (sinh năm: 1999), cùng trú tại thôn Peng Sal Peng, xã ĐP, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum, hát karaoke tại Phòng 104 Quán karaoke Thu H; địa chỉ: Thôn 16/5, thị trấn ĐG, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum.
Khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, Ngô Văn Kh (sinh năm 1977; HKTT: Tổ 15, Ấp 6, xã BC, huyện LT, tỉnh Đồng Nai) cùng với Trương Thanh T (sinh năm: 1981; HKTT: Thôn Đằng Xá, xã HĐ, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa), Y X (sinh năm: 1994), Y T (sinh năm: 1995), Y S (sinh năm: 1996), cùng trú tại thôn PS, xã ĐP, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum, đến hát karaoke tại Phòng 102 Quán karaoke Thu H.
Sau khi hát được một lúc, Y T đi ra ngoài và nhìn vào Phòng 104 thì thấy những người đang hát trong Phòng 104 là người quen nên đi vào hát và uống bia cùng ở phòng hát 104 có A Ch đi qua phòng Ngô Văn Kh đang hát để mời bia, sau khi uống bia xong thì A Ch quay về phòng 104. Một lúc sau, A P từ phòng 104 ra ngoài để tìm A M, nhưng không thấy, nghĩ A M vào Phòng 102 giao lưu nên A P đi vào Phòng 102 để tìm A M. Khi vào Phòng 102, A P nhìn quanh, không nói gì, thấy vậy Khánh nói “bọn em đang hát, các anh vào đây làm gì”. Lúc này xảy ra mâu thuẫn giữa Khánh và Phố, A P đẩy Y X và Ngô Văn Kh ngã, Phố dùng tay đấm vào ngực Khánh, Khánh dùng micro không dây đang cầm trên tay đánh vào đầu của P làm rách da đầu, chảy máu.
Khi nghe ồn ào bên Phòng 102 thì A M, A Ch chạy qua và đẩy cửa để vào nhưng bị Trương Thanh T, Y X, Y S cản lại. Thấy vậy, do sợ bị các đối tượng vào phòng đánh nên Khánh đã chạy ra khỏi phòng hát, Y X và Y S cũng chạy ra theo. Lúc này trong phòng chỉ còn có Trương Thanh T, nghĩ Tuấn là người đánh A P nên A M xông vào đấm vào mắt phải và miệng của Tuấn. Sau đó cả nhóm kéo ra ngoài để tìm Khánh.
Về phần Ngô Văn Kh, sau khi chạy ra khỏi phòng hát, Khánh chạy về phòng trọ của Khánh đối diện Quán karaoke Thu H, lấy một con dao dài 47cm (Bốn mươi bảy centimet), lưỡi dao được làm bằng kim loại dài 33cm (Ba mươi ba centimet), rồi quay lại quán karaoke. Khi vào tới cổng thì gặp nhóm của Ch cũng vừa đi ra khỏi quán, Khánh cầm dao đi tới và chỉ về nhóm của Ch và nói “nãy thằng nào đánh tao”. Khi nghe Khánh nói vậy, Chính lấy một cây inox dùng làm cán cây hốt rác, dài 1m, đường kính 2cm, để gần đó và xông vào tấn công Khánh.
Thấy Chính lao vào, Khánh vung dao chém loạn xạ và đuổi Chính chạy qua hướng Cửa hàng xăng dầu 110 đối diện Quán karaoke Thu H. Khi Khánh đuổi chém thì Chính vừa lùi, vừa vung cây sắt đánh trả, Chính bị Khánh chém trúng ngực bên trái và quay lưng bỏ chạy, Khánh tiếp tục đuổi theo chém loạn xạ và trúng vào phần thắt lưng mông bên phải của Ch ( khoảng cách từ vị trí Ngô Văn Kh chém trúng ngực đến vị trí chém trúng vào thắt lưng A Ch dài 6,85m). Khi thấy Chính bị Khánh tấn công thì A T, A P, A Th1, A M đuổi theo Khánh để đánh. A T đẩy Khánh ngã và tước dao. A P lấy cây inox mà Chính vứt lại trước đó, gập làm đôi; A M lấy một cây sắt vuông 1,24cm dài 1,5m; A Th1 lấy một cây chổi quét nhà bằng nhựa, cán cây chổi bằng inox dài 1m, đường kính 2cm (các đồ vật trên các đối tượng đều lấy từ trong quán karaoke Thu H). A P, A Th1, A M cùng nhau lao vào đánh Khánh. Sau khi được mọi người can ngăn thì các đối tượng mới dừng lại. Khánh chạy vào Quán cháo BH đối diện Quán karaoke Thu H để trốn. Sau khi bị thương, Chính vứt cây inox dùng đánh Khánh lại giữa đường Hồ Chí Minh, quay lại quán karaoke và nằm gục trước quán.
Trong quá trình xảy ra vụ việc, Trương Thanh T cũng chạy theo và lao vào can ngăn thì bị A Th1 dùng cây inox đánh làm gãy xương bàn tay trái.
Sau khi xảy ra vụ án, có bốn người bị thương cụ thể như sau:
A Ch bị thương ở vùng ngực trái (gãy sụn xương sườn 4,5,6 bên trái, tràn khí màng phổi không để lại di chứng) và vùng thắt lưng mông bên phải. Đây là các vết thương do Ngô Văn Kh gây ra, Theo kết luận ngày 20/4/2023, Trung tâm Pháp y tỉnh Kon Tum có kết luận giám định bổ sung tổn thương cơ thể trên người sống số 75/KLTTCT- TTPY-BS, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của A Ch tại thời điểm giám định là 15,08% (Mười lăm phẩy không tám phần trăm).
Ngô Văn Kh bị thương xước da vùng ngực trái kích thước 4,5cm x 0,4cm; xước da vùng gối trái kích thước 2,2cm x 0,3cm; xước da mặt trước ngón số hai bàn chân trái kích thước 1,2cm x 0,4cm. Đây là các vết thương do A Ch, A P, A M, A Th1 gây ra. Tuy nhiên, không xác định được cụ thể từng vết thương do đối tượng nào gây ra.
Ngày 04/4/2023, Trung tâm Pháp y tỉnh Kon Tum có Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 63/KLTTCT-TTPY, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Ngô Văn Kh tại thời điểm giám định là 04% (Bốn phần trăm). Vật gây thương tích: Vật tày.
Trương Thanh T bị bầm và xước da mi mắt phải, dập môi trên và gãy thân xương bàn IV bàn tay trái.
Ngày 17/3/2023, Trung tâm Pháp y tỉnh Kon Tum có Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 50/KLTTCT-TTPY, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trương Thanh T tại thời điểm giám định là 12% (Mười hai phần trăm). Vật gây thương tích: Vật tày. Quá trình điều tra xác định: Hai vết thương bầm và xước da mi mắt phải, dập môi trên là do bị A M đánh tại phòng karaoke, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%. Vết thương gãy thân xương bàn IV bàn tay trái là do bị A Th1 dùng cây inox đánh lúc Tuấn can ngăn các đối tượng đánh Khánh tại Cửa hàng xăng dầu 110, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08%.
A P bị vết thương ở thái dương trái. Đây là vết thương do Ngô Văn Kh gây ra.
Ngày 17/3/2023, Trung tâm Pháp y tỉnh Kon Tum có Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 49/KLTTCT-TTPY, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của A P tại thời điểm giám định là 01% (Một phần trăm). Vật gây thương tích: Vật tày.
Ngô Văn Kh, Trương Thanh T, A P đã có đơn không yêu cầu khởi tố.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng gồm:
- Một con dao có tổng chiều dài 47cm, lưỡi dao được làm bằng kim loại có chiều dài 33cm, cán dao hình trụ được làm bằng gỗ, chiều dài 14cm. Đây là con dao của bị cáo sử dụng để chém A Ch (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2023 giữa cơ quan CSĐT Công an huyện ĐG và Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện ĐG) -Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng Ngày 22/3/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện đã ra Lệnh nhập kho số 02/LNK, nhập kho vật chứng con dao mà Ngô Văn Kh dùng chém A Ch vào ngày 26/02/2023.
Đối với:
- Một thanh sắt tròn, kích thước 2,47m x 0,02m do A P lấy từ quán Karaoke Thu H - Một Micro không dây - Một thanh sắt tròn inox dài 1m x 0,02m bị cong - Một thanh sắt tròn inox dài 1m x 0,02m đã bị biến dạng - Một thanh sắt vuông kích thước 1,5m x 0,0124m bị cong (Theo biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử lập ngày 27/2/2023 bút lục 27).
- Ngày 09/5/2023, ông Bùi Văn Ch đã làm đơn xin nhận lại tài sản, đồ vật đã giao cho Cơ quan CSĐT vào ngày 27/02/2023. Ngày 10/5/2023, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý tài sản, đồ vật số: 11/QĐ-CSĐT, bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là ông Bùi Văn Ch các tài sản, đồ vật theo biên bản giao nhận tài sản, đồ vật ngày 27/02/2023 giữa Cơ quan CSĐT và ông Bùi Văn Ch Về bồi thường thiệt hại: Trong giai đoạn điều tra Bị cáo Ngô Văn Kh đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền là 50.000.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 07/CT - VKS ngày 02 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐG truy tố bị cáo Ngô Văn Kh về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ngô Văn Kh và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình phạt: Áp dụng Điểm đ, khoản 2 Điều 134; Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Văn Kh từ 24 đến 30 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra đại diện gia đình bị cáo đến thăm hỏi và bồi thường cho bị hại A Ch số tiền 50.000.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu gì nên không đề cập.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng và xử lý vật chứng.
- 01 (Một) con dao có tổng chiều dài 47cm, lưỡi dao được làm bằng kim loại có chiều dài 33cm, cán dao hình trụ được làm bằng gỗ, chiều dài 14cm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2023 giữa CQCSĐT Công an huyện ĐG và Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện ĐG).
Đối với:
- Một thanh sắt tròn, kích thước 2,47m x 0,02m do A P lấy từ quán Karaoke Thu H - Một Micro không dây - Một thanh sắt tròn inox dài 1m x 0,02m bị cong - Một thanh sắt tròn inox dài 1m x 0,02m đã bị biến dạng - Một thanh sắt vuông kích thước 1,5m x 0,0124m bị cong (Theo biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử lập ngày 27/2/2023 bút lục 27) - Đối với những vật chứng trên ngày 09/5/2023, ông Bùi Văn Ch đã làm đơn xin nhận lại tài sản, đồ vật đã giao cho Cơ quan CSĐT vào ngày 27/02/2023. Ngày 10/5/2023, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý tài sản, đồ vật số: 11/QĐ-CSĐT, bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là ông Bùi Văn Ch các tài sản, đồ vật theo biên bản giao nhận tài sản, đồ vật ngày 27/02/2023 giữa Cơ quan CSĐT và ông Bùi Văn Ch. Cùng ngày, ông Ch đã nhận đủ số tài sản, đồ vật trên nên không đề cập.
Bị cáo Ngô Văn Kh thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 26/02/2023, tại khu vực đường Hồ Chí Minh (trước Cửa hàng xăng dầu 110), thuộc thôn 16/5, thị trấn ĐG, huyện ĐG, tỉnh Kon Tum, Ngô Văn Kh dùng dao chém A Ch gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 15,08% (Mười lăm phần trăm). Hành vi của Ngô Văn Kh là nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật, trực tiếp xâm hại đến quyền nhân thân, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ, Khoản 2, Điều 134 Bộ Luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐG truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[3]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Về đặc điểm nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, trước khi phạm tội bị cáo không có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết nào.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã hỗ trợ tiền thuốc men và bồi thường thiệt hại số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) cho bị hại A Ch; Ngoài ra, Bị cáo thuộc diện gia đình cách mạng, bà Nội bị cáo được Nhà nước phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị hại có một phần lỗi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[4].Đối với ông A P bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%, Ngô Văn Kh bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%, Trương Thanh T bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%. Tuy nhiên, những người này đều có đơn yêu cầu không khởi tố các đối tượng gây ra thương tích cho mình, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển Công an huyện để xử phạt vi phạm hành chính các đối tượng A P, A Ch, A M, A Th1 và Ngô Văn Kh về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định tại Điểm a, Khoản 5, Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
Ngoài hành vi cố ý gây thương tích thì các đối tượng còn có hành vi gây rối trật tự công cộng. Tuy nhiên, qua xem xét tính chất, mức độ hành vi A Ch, Ngô Văn Kh, A Th1, A M, A P bộc phát, không có sự chuẩn bị công cụ phương tiện, diễn ra nhanh, thời điểm này cũng ít người qua lại chưa gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐG không truy cứu trách nhiệm hình sự các đối tượng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, chuyển Công an huyện xử phạt vi phạm hành chính đối với A Ch, Ngô Văn Kh, A Th1, A M, A P về hành vi “ Gây rối trật tự công cộng’’quy định tại Điểm b, Khoản 5, Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
[6]. Về vật chứng của vụ án:
- 01 ( một ) con dao có tổng chiều dài 47cm, lưỡi dao được làm bằng kim loại có chiều dài 33cm, cán dao hình trụ được làm bằng gỗ, chiều dài 14cm (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2023 giữa CQCSĐT Công an huyện ĐG và Chi Cục thi hành án Dân sự huyện ĐG). Đây là con dao của bị cáo sử dụng để chém A Ch là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng. Tuyên tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra đại diện gia đình bị báo đã đến thăm hỏi và bồi thường cho bị hại A Ch Số tiền 50.000.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay bị hại A Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn Kh phạm tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Ngô Văn Kh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 27/02/2023.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) con dao có tổng chiều dài 47cm, lưỡi dao được làm bằng kim loại có chiều dài 33cm, cán dao hình trụ được làm bằng gỗ, chiều dài 14cm. Đây là con dao của bị cáo sử dụng để chém A Ch (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2023 giữa CQCSĐT Công an huyện ĐG và Chi Cục thi hành án Dân sự huyện ĐG) 2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khoản 1 điều 21; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Ngô Văn Kh phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/7/2023). Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 08/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glei - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về