Bản án 08/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trung N, sinh năm: 1993 (có mặt) Nơi cư trú: Khóm N, phường C, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn P và bà: Nguyễn Ngọc Đ; Vợ: Trương Thị Bé T (đã ly hôn); Con: 01 người; tiền sự: Không;

Tiền án: 02 lần, cụ thể:

- Tại bản án số 37/2018/HS-ST ngày 13/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Lê Trung N 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2019.

- Tại bản án số 192/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Lê Trung N 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173, áp dụng tình tiết tA phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/7/2020.

Nhân thân: Năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà May xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tạm giữ: Ngày 17/9/2020, chuyển tạm giam từ ngày 23/9/2020 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cà Mau.

Bị hại:

- Chị Mai Như A, sinh năm 1992 (vắng mặt)

- Anh Bùi Văn Chế L, sinh năm 1995 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khóm T, phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 17/9/2020, Lê Trung N đi bộ từ nhà trọ thuê để ở tại khóm 8, phường 8, thành phố Cà Mau với mục đích tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà trọ cho thuê tháng của anh Bùi Văn Khiển, đường N, khóm T, phường T, thành phố C, N phát hiện phòng trọ số 07, cửa phòng còn mở, đèn sáng. Trong phòng lúc này có chị Mai Như A và anh Bùi Văn Chế L đang ngủ trên giường, N thấy có 02 điện thoại di động để trên giường, N đi vào lấy 02 điện thoại, tiếp đó N thấy một cA ba lô để ở dưới nền gạch gần giường ngủ, N mở ba lô và phát hiện có một cA bóp da màu nâu, N lấy cA bóp da rồi đi ra khỏi phòng. Khi ra khỏi phòng trọ, N phát hiện có một cây kéo để phía ngoài phòng trọ nên N lấy cây kéo rồi đi ra khỏi nhà trọ.

Khi ra khỏi nhà trọ hơn 10m thì N kiểm tra bóp da thấy bên trong có số tiền 83.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân tên Bùi Văn Chế L và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số 69E1-288.98. N lấy 83.000 đồng, còn bóp da và các giấy tờ bên trong thì N ném vào bụi cây ở gần nhà trọ. N tiếp tục đi bộ đến đoạn đường L thuộc khóm T, phường T, thành phố C thì bị lực lượng Công an phường T tuần tra phát hiện nghi vấn nên mời N làm việc và tạm giữ các đồ vật, tài sản gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J4+ màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S màu đen; 01 bóp da; tiền Việt nam đồng 83.000 đồng; 01 chứng minh nhân dân; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69E1-288.98 và 01 cây kéo cán nhựa màu vàng đen.

Chị Mai Như A thức dậy, phát hiện mất tài sản nên đến Công an phường 8, thành phố Cà Mau trình báo vụ việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 91 ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+, màu vàng, đã qua sử dụng giá trị còn lại 85% x 3.500.000 đồng = 2.975.000 đồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S, màu đen, đã qua sử dụng giá trị còn lại 95% x 5.600.000 đồng = 5.320.000 đồng;

- 01 cA bóp da nam màu nâu, không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 75% x 200.000 đồng = 150.000 đồng.

Tổng cộng: 8.445.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 15/CT-VKS ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Lê Trung N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Trung N từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của bị hại, tài sản trộm đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên việc vắng mặt bị hại không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Trung N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/9/2020, Lê Trung N đã lén lút lấy trộm tài sản của chị Mai Như A, anh Bùi Văn Chế L gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+ trị giá 2.975.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S trị giá 5.320.000 đồng; 01 bóp da nam, bên trong có 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69E1-288.98, bóp da trị giá 150.000 đồng; tiền Việt Nam đồng 83.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Lê Trung N chiếm đoạt của chị A, anh L là 8.528.000 đồng (Tám triệu năm trăm hai mươi tám nghìn đồng) nhằm mục đích tiêu xài cá nhân.

Trước đó, bị cáo N có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đã thuộc trường hợp tA phạm chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định khung hình phạt là tA phạm nguy hiểm.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

….

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

….

g) TA phạm nguy hiểm”.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Lê Trung N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác một cách trái pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình trật tự ở địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì bản chất tham lam, lười lao động, xem thường pháp luật, bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt tù về tội Trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo không biết sửa chữa sai lầm mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Trong vụ án này bị cáo phạm tội với tình tiết định khung hình phạt là tA phạm nguy hiểm nên cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Do lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định khung hình phạt là tA phạm nguy hiểm như nhận định nêu trên nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thA độ ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J4+ màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S màu đen; 01 bóp da; tiền Việt nam đồng 83.000 đồng; 01 chứng minh nhân dân; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69E1-288.98. Các tài sản này là do bị cáo trộm của chị Mai Như A và anh Bùi Văn Chế L. Ngày 21/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả lại các tài sản này cho chị A và anh L là phù hợp.

01 cây kéo có cán bằng nhựa màu vàng – đen, mũi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 17cm. Vật chứng này không phải của bị hại, do bị cáo lấy trước cửa phòng bị hại, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Bị cáo phạm tội bị xét xử nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Trung N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Trung N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cây kéo có cán bằng nhựa màu vàng – đen, mũi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 17cm (đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Trung N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về