Bản án 08/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 189/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 192/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị T, (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nữ, sinh năm 1970, tại Nam Định; Nơi ĐKHKTT: Số 9/8 đường C, phường Q, thành phố N1, tỉnh Nam Định; Chỗ ở hiện nay: Số 40/223, đường G, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị P; Chồng: Vũ Quang H; Con: có 02 con, đã trưởng thành; tiền án, tiền sự: chưa có.

Lịch sử bản thân: Bản án số 251/2009/HSST ngày 19/10/2020 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội xử phạt 33 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản án số 191/2009/HSPT ngày 29/12/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm quyết định xử phạt 33 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 42 tháng 28 ngày. Quyết định giám đốc thẩm số 19/2011/HS-GĐT ngày 25/7/2011 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân Tối cao quyết định hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 191/2009/HSPT của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại về trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị T. Bản án số 944/2011/HSPT ngày 26/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm quyết định xử phạt 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/7/2020 cho đến nay, (Có mặt).

2. Họ và tên: Vũ Thị Tú O, (tên gọi khác: Vũ Thị Tú A); Giới tính: Nữ, sinh năm 1964, tại Nam Định; Nơi ĐKHKTT: Số 2/42, đường P, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định; Chỗ ở hiện nay: Số 1C-3 tầng số 4, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Vũ T và bà Lê Thị Thanh D; Chồng: Hoàng H; Con: có 04 con, đã trưởng thành; tiền án, tiền sự: chưa có.

Lịch sử bản thân: Bản án số 96 ngày 21/6/2000 của Tòa án nhân dân thành phố N1 xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/7/2020 cho đến nay, (Có mặt).

Bị hại: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1953, trú tại: số nhà 48, đường L, phố 7, phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Mai Thị M, sinh năm 1968; địa chỉ: Số 7B-3, tầng số 2, đường P, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định, (Vắng mặt).

2. Anh Hoàng Đình L, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 2/42, đường P, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định, (Vắng mặt).

3. Anh Vũ Quang H, sinh năm 1969; địa chỉ: Số 9/8, đường C, phường Q, thành phố N1, tỉnh Nam Định, (Có mặt).

Người Làm chứng: Bà Mai Thị L1, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O, người phụ nữ tên Huệ nhà ở thành phố N1 và người phụ nữ tên Oanh nhà ở thành phố Hà Nội có quen biết nhau từ trước và đều không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài cá nhân cả nhóm cùng bàn bạc thống nhất dùng hạt Hạnh nhân giả làm thuốc chữa bệnh rồi dàn cảnh, lừa bán lấy tiền chia nhau. Hình thức lừa đảo được thực hiện như sau: Mỗi người trong nhóm sẽ thực hiện một vai trò khác nhau. Trước khi đi thực hiện hành vi lừa đảo, người phụ nữ tên Huệ chuẩn bị các gói hạt Hạnh Nhân có dán mác “Tinh chất hạt thảo sơn – Học việc Quân y- QT175” và là người mua thuốc ngày hôm trước đến trả tiền còn thiếu, nếu khách hàng không mang tiền thì Huệ sẽ bỏ tiền ra cho vay sau đó về nhà khách hàng lấy tiền; Nguyễn Thị T là người tiếp cận, làm quen với khách hàng và giới thiệu mình là bác sỹ rồi dẫn khách hàng đến gặp Oanh ( Hà Nội) để mua thuốc; Vũ Thị Tú O đóng giả là người cũng có nhu cầu mua thuốc chữa bệnh, khi Tám tiếp cận được khách hàng thì Vũ Thị Tú O sẽ đến xin đi cùng để tạo lòng tin cho khách hàng; Người phụ nữ tên Oanh (Hà Nội) là người cầm theo các túi hạt Hạnh Nhân và đóng giả là người bán thuốc. Đối tượng khách hàng mà các đối tượng nhắm đến là những người phụ nữ khoảng 60 tuổi trở lên, có biểu hiện bị các bệnh về mắt hay đau đầu dễ nhận biết.

Với cách thức lừa đảo như trên, khoảng 06 giờ 30 phút ngày 08/02/2020, Nguyễn Thị T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 85C- 2...59, Vũ Thị Tú O điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18D1- 4...15, Huệ và Oanh (Hà Nội) mỗi người điều khiển xe một xe mô tô đi từ nhà tại thành phố N1 hẹn gặp nhau tại chân cầu Non Nước, thuộc xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định rồi cùng đi sang thành phố N. Nguyễn Thị T điều khiển xe đi đầu tiên, khi đến khu vực ngã tư Hoa Đô thì gặp bà Nguyễn Thị T1 sinh năm 1953, trú tại phố 7, phường Đ, thành phố N đang đi xe đạp một mình, T chủ động bắt chuyện với bà T1 và nói “bà có phải là bà Lan chơi với mẹ chồng con không”, bà T1 trả lời là “không”. Quan sát thấy bà T1 có biểu hiện bị đau mắt, T nói “cháu là bác sỹ Thu Hà làm ở khoa mắt bệnh viện Quân y 5, bà bị đau mắt à, bà mua thuốc Tinh chất hạt thảo sơn, Đông y của Nhật mà chữa”, thấy T nói vậy, bà T1 dừng xe lại. Lúc này, Vũ Thị Tú O đi ngay phía sau thấy T tiếp cận được khách hàng nên hiểu ý tiến lại gần hỏi “Có phải em đang nói đến thuốc Tinh chất hạt thảo sơn, Đông y của Nhật để chữa mắt phải không, mua ở đâu hả em, thuốc đó tốt lắm, chị và người nhà dùng rất hiệu quả, chị tìm mua mãi mà không được”. T chỉ tay về phía hướng đi trường đại học Hoa Lư và nói “Đến hiệp hội trước mặt mà mua”. Bà T1 thấy vậy nói “Cho tôi đi với” sau đó gửi xe đạp rồi lên xe mô tô của Vũ Thị Tú O chở đi cùng với Nguyễn Thị T. T và O đưa bà T1 đi đến khu vực phố Tân Thịnh, phường Tân Thành thì nhìn thấy Oanh (Hà Nội) đi ngược chiều, T gọi “bác sỹ ơi” thấy vậy Oanh (Hà Nội) dừng xe lại. T, O và bà T1 đi đến chỗ Oanh (Hà Nội), tại đây T nói “Hai chị này muốn mua thuốc Tinh chất hạt thảo sơn, Đông y của Nhật, bác sỹ còn thì để cho mỗi người một liệu trình”, Oanh (Hà Nội) nói “thuốc đã có người đặt nhưng hai chị cần thì em để lại cho, thuốc giờ khan hiếm lắm giá 12.500.000 đồng một liệu trình”. Lúc này, Huệ đi xe mô tô đến, đóng giả là người mua thuốc ngày hôm trước còn thiếu tiền nên trả cho Oanh (Hà Nội) số tiền 2.000.000 đồng còn thiếu, đồng thời Huệ nói “thuốc của chị dùng hiệu quả lắm”. Oanh (Hà Nội) quay sang hỏi bà T1 và Vũ Thị Tú O “bà và chị có lấy không cháu còn đi” thì bà T1 trả lời “không có tiền ở đây phải về nhà lấy mới có”. Thấy vậy Huệ hỏi nhà bà T1 nhà ở đâu và nói “Cháu cho bà vay”, bà T1 đồng ý, sau đó Huệ lấy số tiền 12.500.000 đồng đưa cho Oanh (Hà Nội) và cầm túi hạt Hạnh Nhân mà Oanh (Hà Nội) đưa rồi chở bà T1 về nhà lấy tiền. Khi đến nhà bà T1, Huệ đứng ngoài đợi bà T1 vào nhà lấy số tiền 12.500.000 đồng đưa cho Huệ rồi Huệ điều khiển xe đi về hướng thành phố N1. Trên đường đi về, Huệ gặp T, O và Oanh (Hà Nội), tại đây Huệ chia cho T số tiền 1.400.000 đồng, O số tiền 1.000.000 đồng, sau đó cả nhóm tản ra đi về nhà.

Cũng với cách thức thủ đoạn như trên, sáng ngày 24/02/2020, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O cùng với Mai Thị M sinh năm 1968, trú tại đường P, phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định và một người đàn ông tên Dũng cùng đi sang thành phố N để tìm khách lừa bán thuốc. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, tại khu vực chợ sinh viên, phường P, thành phố N, Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O gặp và tiếp cận bà Mai Thị L1, sinh năm 1959, trú tại phố Phúc Tân, phường P, thành phố N cùng với mục đích lừa để bán thuốc đông y. Khi T và O đang đưa bà Lan ra khu vực nghĩa trang Đền Hiềm thuộc phường P, thành phố N để gặp Mùi và người đàn ông tên Dũng nhằm mục đích dàn cảnh bán thuốc thì bị Tổ công tác công an phường P, thành phố N phát hiện. Thấy vậy, người đàn ông tên Dũng cùng tang vật bỏ trốn khỏi hiện trường. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc sau đó đưa Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O, Mai Thị M về trụ sở để làm việc. Thu giữ của Nguyễn Thị T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 85C1 - 2...59; thu của Vũ Thị Tú O 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18D1 - 4...15; thu của Mai Thị M 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18B2 - 016.68.

Sau khi biết mình bị lừa mua thuốc giả, ngày 24/02/2020, bà Nguyễn Thị T1 có đơn trình báo sự việc lên Cơ quan điều tra và giao nộp 05 túi nilon màu trắng bên đều chứa các hạt dạng hạt Hạnh Nhân.

Tại bản Kết luận giám định số 1407/C09/P4 ngày 23/3/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an, kết luận: Mẫu hạt trong năm túi nilon có tổng trọng lượng 850 gam gửi giám định đều là hạt Hạnh Nhân. Hiện tại Viện khoa học hình sự chưa tìm thấy tài liệu về hạt Hạnh Nhân được sử dụng trong Đông y như thế nào. Tại công văn số 1959 ngày 01/6/2020 của Sở Y tế tỉnh Ninh Bình cung cấp: Hạt Hạnh Nhân không có tác dụng chữa các bệnh về mắt.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O đã tự giác giao nộp lại số tiền 12.500.000 đồng để trả lại cho bà Nguyễn Thị T1 đồng thời thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 191/CT-VKS ngày 30/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O đã khai nhận, để có tiền tiêu xài cá nhân cả nhóm cùng bàn bạc thống nhất dùng hạt Hạnh nhân giả làm thuốc chữa bệnh rồi dàn cảnh, lừa bán lấy tiền chia nhau. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 08/02/2020 các bị cáo đã lừa bán cho bà Tâm lấy số tiền 12.500.000đ Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T từ 04 tháng đến 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS; Xử phạt bị cáo Vũ Thị Tú O từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo O cho UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo O có trách nhiệm phối hợp với UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định trong việc giám sát giáo dục bị cáo; khấu trừ thu nhập hàng tháng từ 05% đến 10% để sung công quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số hạt Hạnh nhân còn lại do Cơ quan giám định hoàn trả không có giá trị sử dụng.

- Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bị hai không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tó tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại; lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; các tài liệu chứng cứ có trong hồ vụ án; Kết luận giám định số 1407/C09/P4 ngày 23/3/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an, kết luận: Mẫu hạt trong năm túi nilon có tổng trọng lượng 850 gam gửi giám định đều là hạt Hạnh Nhân. Hiện tại Viện khoa học hình sự chưa tìm thấy tài liệu về hạt Hạnh Nhân được sử dụng trong Đông y như thế nào. Tại công văn số 1959 ngày 01/6/2020 của Sở Y tế tỉnh Ninh Bình cung cấp: Hạt Hạnh Nhân không có tác dụng chữa các bệnh về mắt. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: 07 giờ 30 phút, ngày 08/02/2020, tại khu vực phố T, phường T, thành phố N, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O cùng đồng phạm có hành vi dàn cảnh, dùng lời nói, thông tin gian dối để chiếm đoạt số tiền 12.500.000đ của bà Nguyễn Thị T1.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bản thân các bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi là cố ý. Đối chiếu với nội dung bản Cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ. Vì vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 của BLHS.

Trong vụ án có hai bị cáo cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội nhưng với tính chất đồng phạm giản đơn, để cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy rằng:

Đối với bị cáo T đã có những lời nói gian dối tạo lòng tin với bị hại là bà Nguyễn Thị T1, bán thuốc không có tác dụng chữa bệnh về mắt để chiếm đoạt tài sản của bà T1, khi bị cáo O muốn đi cùng thì bị cáo đã đồng ý cho bị cáo O đi cùng, tạo điều kiện cho bị cáo O cùng thực hiện hành vi phạm tội của mình. Do vậy xét về nhân thân cũng như tính chất hành vi phạm tội thì bị cáo T giữ vai trò đầu vụ trong vụ án và phải chịu mức hình phạt nặng hơn so với bị cáo O.

Đối với bị cáo O khi biết bị cáo T đi thực hiện hành vi lùa đảo, bị cáo đã chủ động xin đi cùng, trong vụ án nay bị cáo giả là người đi mua thuốc và dùng những lời nói gian dối để tạo lòng tin cho người bị hại để chiếm đoạt tài sản. Do vậy xét về nhân thân cũng như tính chất hành vi phạm tội thì bị cáo O giữ vai sau bị cáo T trong vụ án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O đã tự giác giao nộp lại số tiền 12.500.000đ để trả lại cho bà Nguyễn Thị T1; đồng thời thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với bị cáo Nguyễn Thị T cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Đối với bị cáo Vũ Thị Tú O chỉ cần áp dụng Điều 36 BLHS giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục là phù hợp; ngoài ra cần áp dụng khấu trừ thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án đối với bị cáo là 5%.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra các bị cáo đã tự giác giao nộp lại số tiền 12.500.000đ để trả lại cho bà Nguyễn Thị T1. Bà T1 đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu đề nghị gì khác; vì vậy HĐXX không xét.

[4]. Về xử lý vật chứng: Đối với số hạt Hạnh Nhân sau khi gửi giám định hoàn trả lại là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Các vấn đề khác:

- Quá trình điều tra xác định, ngày 24/02/2020, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O và Mai Thị M đang có hành vi dàn cảnh để lừa đảo bán thuốc cho bà Mai Thị L1, tuy nhiên khi T và O đang dắt bà Lan đến gặp Mùi thì bị cơ quan công an phát hiện bắt giữ. Trước khi bị bắt giữ T, O và Mùi chưa thỏa thuận về số tiền chiếm đoạt và chưa chiếm đoạt được tài sản của bà Lan, do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý đối với T, O và Mùi về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự.

- Đối với người phụ nữ tên Huệ nhà ở thành phố N1 và người phụ nữ tên Oanh nhà ở thành phố Hà Nội, quá trình điều tra Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O không biết tên tuổi đầy đủ và địa chỉ cụ thể của Huệ và Oanh do vậy không có căn cứ để xác minh làm rõ.

- Đối với đàn ông tên Dũng đi cùng với Nguyễn Thị T, Vũ Thị Tú O và Mai Thị M ngày 24/2/2020 sang thành phố N với mục đích đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi cơ quan công an bắt giữ các đối tượng thì Dũng đã bỏ trốn khỏi hiện trường, T, O và Mùi không biết tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể của Dũng do vậy không có căn cứ xác minh làm rõ - Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 85C1-2...59 thu giữ của Nguyễn Thị T. Quá trình điều tra, T khai nhận đã mượn chiếc xe mô tô trên của chồng là anh Vũ Quang H, sinh năm 1969, trú tại phường Q, thành phố N1, tỉnh Nam Định. Làm việc với anh H xác định năm 2016 anh H mua chiếc xe mô tô trên tại cửa hàng xe máy Tuấn Duy, có địa chỉ 471, đường Lũy Bán Tích, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 15.500.000 đồng và chưa làm thủ tục sang tên. Tra cứu thông tin chủ phương tiện xác định, chiếc xe mô tô trên đăng ký mang tên chị Trương Thị An, sinh năm 1995, trú tại xã Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Ngày 29/7/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra Quyết định ủy thác điều tra tới Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận để xác minh chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe mô tô trên để tiếp tục xác minh làm rõ.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18D1-4...15 thu giữ của Vũ Thị Tú O, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của anh Hoàng Đình L, sinh năm 1993, trú tại phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định là con trai của O. Việc O sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi lừa đảo anh L không biết, do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố N đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh L, anh L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18B2-016.68 thu giữ của Mai Thị M, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của Mùi không liên quan đến vụ án. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho Mùi, Mùi đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị T.

- Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Thị Tú O.

Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 các điều 106, 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O (Tên gọi khác: Vũ Thị Tú A) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 04 (Bốn) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

1.2. Xử phạt bị cáo Vũ Thị Tú O (Tên gọi khác: Vũ Thị Tú A)12 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Oanh cho UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo Oanh có trách nhiệm phối hợp với UBND phường T, thành phố N1, tỉnh Nam Định trong việc giám sát giáo dục bị cáo; khấu trừ thu nhập hàng tháng 05% để sung công quỹ Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số hạt Hạnh Nhân sau khi gửi giám định hoàn trả lại. (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/12/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố N, tỉnh Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N, tỉnh Ninh Bình).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị T và Vũ Thị Tú O mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo:

- Các bị cáo, anh H có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bà Tâm, chị Mai, anh Linh vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về