Bản án 08/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2021/TLST-HS, ngày 05 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST- HS, ngày 15 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn H; sinh năm 1986; nơi sinh: Hà Nội; nơi đăng ký thường trú và cư trú: Thôn 4, xã Đại Lào, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm vườn; văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:

Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1957, cả hai đang trú tại xã Đ, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; có vợ tên Lê Thị Q, sinh năm 1988; trú tại xã Đ, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 17/04/2013, bị Công an thành phố Bảo Lộc xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, đã nộp phạt ngày 23/4/2013. Ngày 26/11/2014 bị Công an thành phố Bảo Lộc xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, đã nộp phạt ngày 28/11/2014. Cả hai lần xử phạt nêu trên tính đến ngày phạm tội đã hết thời gian được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo tại ngoại (có mặt .

2. Họ và tên: Nguyễn T; sinh năm 1964; nơi sinh: Thành phố Đà Nẵng; nơi đăng ký thường trú và cư trú: xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm vườn; văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ho và bà Nguyễn Thị H (đều đã chết ; có vợ tên Nguyễn Thị L, sinh năm 1964 (đã ly hôn ; bị cáo có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 07/01/2020 bị Công an xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép; đã nộp phạt ngày 09/01/2020, đến nay chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo tại ngoại (có mặt .

- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Th, sinh năm 1966, địa chỉ: xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng (có mặt .

- Người làm chứng: Anh Trần Ngọc D, sinh năm 1984, địa chỉ: phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 07/06/2020, Trần Văn H mang theo 04 bộ đồ chơi xóc bầu cua và 5.000.000 đồng đến khu vườn cà phê của anh Trần M, sinh năm 1977, tại số 389/1 đường B’Laosire, Thôn 11, xã Đại Lào, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng để đánh bạc. Khi đến nơi, H thấy có khoảng 20 thanh niên đang tụ tập chơi đá gà nhưng H không tham gia. Sau đó H đi đến mái che bên hông nhà của anh M ngồi chờ. Khoảng 20 phút sau, nhóm thanh niên trên nghỉ chơi ra về, còn lại các đối tượng gồm: Nguyễn T; Nguyễn Th, Trần Ngọc D (có lai lịch như trên ; Đặng Trần T, sinh năm 1982, trú tại xã Đ, thành phố B, Trần Thanh Ph, sinh năm 1976, trú tại xã L, huyện B, Huỳnh Văn C, sinh năm 1981, trú tại xã L, huyện B và một số đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch ở lại thì H lấy bộ xóc bầu cua ra rủ chơi đánh bạc, do H làm cái.

Về hình thức chơi: H sử dụng 01 tờ giấy in hình bầu, cua, gà, tôm, cá, nai trải ra sân để người chơi đặt cược; đồng thời sử dụng 01 hộp nhựa để xóc 03 hạt xúc xắc in hình bầu, cua, gà, tôm, cá, nai. Khi người chơi đặt cược xong thì H mở hộp để xác định thắng thua. Ngoài ra, các con bạc còn đánh “tả” với nhau và tự chung chi tiền thắng thua trực tiếp với nhau. Các con bạc thỏa thuận, số tiền đánh mỗi ván thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất là 200.000 đồng. Sòng bạc lúc này có khoảng 04 đến 05 người chơi và 04 đến 05 người đứng xem. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 14 giờ ngày cùng ngày thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm bắt quả tang.

Tại hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ số tiền 5.250.000 đồng trên chiếu bạc:

04 tờ giấy in hình bầu, cua; 09 cục xốp dán hình bầu, cua; 01 cân đồng hồ nhãn hiệu Nhơn Hòa; 01 bộ bài tây đã qua sử dụng; 13 cuộn băng keo trắng; 01 hộp nhựa màu trắng kích thước 20cm x 18cm; 01 nắp kim loại 20cm x 04cm. Thu giữ xung quanh hiện trường 05 xe mô tô, gồm: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49K1- 600.53; 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu, biển số 49S6-5535; 01 xe mô tô màu đen, biển số 49V8-8854; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng đỏ, biển số 49M6-2893:

01 xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu, biển số 49T3-7194.

Thu giữ trên người các đối tượng số tiền 16.140.000 đồng và 04 điện thoại di động các loại, gồm: 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 5.640.000 đồng của Trần Văn H:

01 điện thoại di động Samsung màu đen và 3.100.000 đồng của Nguyễn T; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương và 4.800.000 đồng của Nguyễn Th; 2.500.000 đồng của Đặng Trần T; 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 100.000 đồng của Trần Ngọc D.

Sau khi bắt quả tang vụ đánh bạc, Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã phối hợp với chính quyền địa phương xác định, nơi xảy ra đánh bạc thuộc địa phận Xóm 4, Thôn 11, xã Đại Lào, thành phố Bảo Lộc, vì vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc để giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra xác định hành vi của các đối tượng như sau: Bị cáo Trần Văn H đã mang theo số tiền 5.000.000 đồng, chuẩn bị các dụng cụ xóc bầu cua, đứng ra làm cái để đánh bạc với bị cáo Nguyễn T và các con bạc khác. Chơi được khoảng 15 phút thì H thắng số tiền 1.500.000 đồng; H lấy 5.000.000 đồng cất vào túi, còn lại 1.500.000 đồng cầm trên tay. Khi bị bắt quả tang, H đã vứt số tiền trên tại chiếu bạc. Kiểm tra trên người bị cáo H, Cơ quan điều tra còn thu giữ số tiền 5.640.000 đồng, trong đó có 5.000.000 đồng là tiền đánh bạc và 640.000 đồng không dùng đánh bạc.

Đối với bị cáo Nguyễn T: Vào khoảng 11 giờ ngày 07/06/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 49V8-8854 và mang theo số tiền 3.200.000 đồng đến khu vực trên để tham gia đá gà. Tuy nhiên, khi đến nơi thì nhóm người đá gà đã ra về nên T vào chơi bầu, cua với H. T lấy ra số tiền 100.000 đồng (đặt mỗi ván 50.000 đồng, chơi được khoảng 07 đến 08 ván thì bị bắt quả tang. Quá trình bắt sòng bạc thì có một số đối tượng bỏ chạy, đến nay Cơ quan điều tra chưa làm việc được.

Như vậy, số tiền đánh bạc mà các bị cáo: Trần Văn H, Nguyễn T phải chịu trách nhiệm là 10.250.000 đồng, bao gồm 5.250.000 đồng thu trên chiếu bạc và 5.000.000 đồng thu trên người bị cáo H.

Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản không liên quan đến tội phạm cho chủ sở hữu, gồm: Trả lại cho Đặng Trần T 2.500.000 đồng và 01 xe mô tô, biển số 49S6-5535; trả lại cho Trần Ngọc D 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 100.000 đồng. Hiện đang tạm giữ số tiền 18.790.000 đồng; 01 điện thoại Nokia màu đen của Trần Văn H; 01 điện thoại Nokia màu xanh dương của Nguyễn Th; 01 điện thoại Samsung màu đen và 01 xe mô tô biển số 49V8-8854, số máy 2FMH00002913, số khung MN5H02913 của Nguyễn T; 04 tờ giấy in hình bầu, cua; 09 cục xốp lập phương:

01 cân đồng hồ Nhơn Hòa loại 05kg; 01 bộ bài tây đã qua sử dụng có 49 lá; 13 cuộn băng keo trắng; 01 hộp nhựa màu trắng kích thước 20cm x 18cm; 01 nắp kim loại 20cm x 04cm; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số 49M6-2893 của Nguyễn Th; 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu, biển số 49T3-7194 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49K1-600.53 (không xác định được chủ sở hữu .

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSBL ngày 28 tháng 12 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố các bị cáo Trần Văn H, Nguyễn T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị: Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo H số tiền từ 10.000.000 đến 15.000.000 đồng. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn T từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo T số tiền từ 10.000.000 đến 15.000.000 đồng.

Các bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nêu, các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung Cáo trạng, thấy đúng với tội của mình, xin được giảm nhẹ hình phạt. Ông Nguyễn Th khai nhận, ông có đến sòng bầu cua đứng xem một lúc sau đó có đặt số tiền 50.000 đồng để đánh 01 ván, nhưng khi ván bạc chưa diễn ra đã thì bị Cơ quan điều tra bắt giữ. Các bị cáo H, T khai nhận không quen biết ông Th và cũng không nhìn thấy ông Th đánh bạc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.

[2] Về căn cứ xác định tội: Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù H với lời khai nhân chứng, vật chứng thu giữ, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 07/06/2020, tại nhà số 389/1 B’Laosire, Thôn 11, xã Đại Lào, thành phố Bảo Lộc, các bị cáo Trần Văn H, Nguyễn T đã có hành vi đánh bạc với nhau dưới hình thức chơi bầu, cua với tổng số tiền là 10.250.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bảo lộc đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng trong quyết định truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, vai trò các bị cáo: Các bị cáo đều là người có đầy đủ nhận thức, các bị cáo biết rõ việc đánh bạc được thua bằng tiền là hành vi trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo không những xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Bảo Lộc. Về vai trò các bị cáo, đây là vụ án có đồng phạm nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nên mang tính đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo H là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ và đứng ra làm cái để đánh bạc với bị cáo T cùng các đối tượng khác, vì vậy cần xử lý nghiêm khắc hơn. Đối với bị cáo T, đã tham gia đánh bạc từ đầu đến khi bị bắt nên cũng cần xét xử mức hình phạt phù H, đủ sức răn đe.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, trong đó bị cáo H đã 02 lần bị Công an thành phố Bảo Lộc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nhưng đến nay đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo T có 01 tiền sự, bị Công an xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường H ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa thật thà khai báo nên được áp dụng các điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo T có bố là ông Nguyễn H, được Hội đồng Nhà nước tặng bằng khen về thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được áp dụng thêm khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, các bị cáo đánh bạc với số tiền không lớn, hiện nay đều có nghề nghiệp và nơi cư trú ổn định nên không cần cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà giao chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là phù hợp.

[5] Đối với ông Nguyễn Th, có mặt tại chiếu bạc và đặt số tiền 50.000 đồng để đánh 01 ván, nhưng khi ván bạc chưa diễn ra thì đã bị Cơ quan điều tra bắt giữ nên không truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án này là phù hợp.

[6] Đối với các đối tượng: Trần Thanh P, Huỳnh Văn C, đã có mặt tại chiếu bạc sau đó bỏ chạy. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra nhiều lần triệu tập đến làm việc nhưng các đối tượng vắng mặt. Do đó cần tách ra để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với ông Trần M, là chủ chòi canh cà phê - Nơi xảy ra đánh bạc. Tuy nhiên Minh không biết các đối tượng đánh bạc tại vườn của mình nên cũng không truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án này.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản không liên quan đến tội phạm cho chủ sở hữu nên không đề cập đến. Đối với các vật chứng đang tạm giữ, xử lý như sau:

Đối với số tiền đánh bạc là 10.250.000đ, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 04 tờ giấy xóc bầu cua in hình bầu, cua; 09 cục xốp lập phương dán hình bầu, cua; 01 cân đồng hồ Nhơn Hòa loại 05kg; 01 bộ bài tây đã qua sử dụng có 49 lá; 13 cuộn băng keo trắng; 01 hộp nhựa màu trắng kích thước 20cm x 18cm; 01 nắp kim loại 20cm x 04cm, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền và tài sản không liên quan đến tội phạm thì trả lại cho các bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án, cụ thể: Trả cho bị cáo Trần Văn H số tiền 640.000đ và 01 điện thoại di động Nokia màu đen. Trả cho bị cáo Nguyễn T số tiền 3.100.000đ; 01 xe mô tô màu đen, biển số 49V8-8854, số máy 2FMH00002913, số khung MN5H02913 và 01 điện thoại di động Samsung màu đen. Trả cho ông Nguyễn Th số tiền 4.800.000đ; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương và 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số 49M6-2893.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu, biển số 49T3-7194 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 49K1-600.53; do hiện nay chưa xác minh được nguồn gốc nên cần giao cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc tiếp tục xác minh và xử lý theo qui định của pháp luật.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố, các bị cáo: Trần Văn H, Nguyễn T phạm tội “đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo H số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu đồng), sung quĩ Nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo T số tiền 10.000.000 (mười triệu đồng), sung quĩ Nhà nước.

Thời gian cải tạo không giam giữ của các bị cáo tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Văn H cho Ủy ban nhân dân xã Đại Lào, thành phố Bảo Lộc; giao bị cáo Nguyễn T cho Ủy ban nhân dân xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng để theo dõi, giáo dục các bị cáo. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối H với chính quyền địa phương để theo dõi, giáo dục các bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các qui định về cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập vì các bị cáo hoàn cảnh khó khăn.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 04 tờ giấy xóc bầu cua in hình bầu, cua, gà, tôm, cá, nai; 09 cục xốp lập phương dán hình bầu, cua, gà, tôm, cá, nai; 01 cân đồng hồ Nhơn Hòa loại 05kg:

01 bộ bài tây đã qua sử dụng có 49 lá; 13 cuộn băng keo trắng; 01 hộp nhựa màu trắng hình trụ tròn đường kính 20cm, cao 18cm; 01 nắp kim loại hình trụ tròn đường kính 21cm, cao 04cm.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 10.250.000đ (mười triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

- Trả cho bị cáo Trần Văn H số tiền 640.000đ (sáu trăm bốn mươi nghìn đồng); 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số IMEI 352876108516722, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho bị cáo Nguyễn T số tiền 3.100.000đ (ba triệu một trăm nghìn đồng); 01 xe mô tô màu đen, biển số 49V8-8854, số máy 2FMH00002913, số khung MN5H02913; 01 điện thoại di động Samsung màu đen, số IMEI 357648102060113/01, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho ông Nguyễn Th số tiền 4.800.000đ (bốn triệu tám trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động Nokia màu xanh dương, số IMEI 358916072359586; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu trắng đỏ, biển số 49M6-2893, số máy 43E5501224, số khung 432XAY051055.

- Giao cho Công an thành phố Bảo Lộc 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream màu nâu, biển số 49T3-7194, số máy VVNZS150FMG001295, số khung G012VN-001295; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius RC màu đỏ, biển số 49K1-600.53, số khung RKCS1FC30EY075977, số máy 1FC(YY/3 0750981, để tiếp tục xác minh làm rõ nguồn gốc và xử lý theo qui định của pháp luật.

(Các vật chứng ghi nhận theo biên bản giao nhận ngày 06/01/2021; số tiền được chuyển theo Ủy nhiệm chi ngày 06/01/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bảo Lộc với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bảo Lộc).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:08/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về