TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 01/03/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Trong ngày 01/03/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2020/HSST ngày 13/11/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HS ngày 24/12/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2021/HSST-QĐ ngày 12/01/2021 và Thông báo thay đổi ngày xét xử số 01/TB-TA ngày 27/01/2021 đối với:
- Bị cáo: Danh T, sinh năm 1980, Hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay:
khóm 4, phường 1, thị xã G, tỉnh B; Dân tộc: Khmer; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 01/12; Cha: Danh N, sinh năm: 1948; Mẹ: Sơn Thị Kim H, sinh năm: 1950; Anh, chị em ruột có 06 người, lớn nhất sinh năm 1975, nhỏ nhất sinh năm 1995.
Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án. Tại quyết định tổng hợp hình phạt số 01 ngày 13/6/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu buộc Danh T phải chấp hành 7 năm 6 tháng tù, và đã chấp hành xong ngày 09/5/2017, chưa được xóa án tích.
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị khởi tố ngày 14/8/2020 đến ngày 31/8/2020 bị bắt theo Lệnh truy nã, áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam cho đến nay. (Có mặt).
- Bị hại: Trương Vạn P – sinh năm: 2000 Địa chỉ: ấp 18, xã Phong T, thị xã G, tỉnh Bạc L. (Có mặt).
- Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị Hồng C, sinh năm: 1955; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp 19, xã Ph, thị xã G, tỉnh B. (Vắng mặt).
2. Ông Từ X, sinh năm: 1990; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: khóm 1, phường Hộ P, thị xã G, tỉnh Bạc L. (Có mặt).
3. Ông Kim L, sinh năm: 1985 (tên gọi khác: Trắng); Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: khóm 4, phường 1, thị xã G, tỉnh Bạc L. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà Trần Thị Hồng C cho rằng ông Đoàn Trí D (chồng của C) đã đưa cho bà Trương Thị H số tiền 11.600.000 đồng, nên bà C gặp, nhờ Từ T đi lấy tiền của bà H và hứa sẽ cho tiền khi lấy được tiền của bà H thì Từ T đồng ý.
Đến khoảng 16 giờ, ngày 24/12/2019 bà C điện thoại kêu Từ T đi vào nhà bà H lấy tiền thì Từ T gọi điện thoại rủ Kim L (Trắng) cùng đi lấy tiền thì L đồng ý. Trước khi đi L mang theo 01 cây dao tự chế dài khoảng 60cm, còn T mang 01 gậy 03 khúc. Từ T điều khiển xe chở Kim L đến Công viên Giá Rai thì cả hai gặp Danh T (T mèo). Lùc này, L rủ T cùng đi đòi tiền bà H, thì T cũng đồng ý tham gia.
Khi đi đến khu vực xã Phong Tân, thị xã Giá Rai thì gặp ông Đoàn Trí D (chạy xe ôm) đang chở bà C, lúc này bà C xuống xe của ông D rồi lên xe cho T chở tiêp tuc đi vào nhà chị H thuộc ấp 18, xã Phong tân, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Trước khi vào nhà bà H thì T, L có cầm hung khí đã mang theo, còn Danh T thì nhặt 01 khúc cây dài khoảng 70 cm cầm trên tay; Vào nhà bà H, thì P (Cháu bà H) ra hỏi “Có gì không” thì bà C hỏi bà H đâu, P trả lời bà H không có nhà, thì bà C đưa điện thoại của mình buộc P phải gọi kêu bà H về để giải quyết tiền bạc, khi bà C đưa điện thoại thì L cầm dao tự chế, nắm tóc P, T cầm gậy 03 khúc, Danh T cầm cây chỉ về P cùng đe dọa, buộc P phải gọi cho bà H. Lúc này, P nói không nhớ số điện thoại của bà H nên nhờ lại giường lấy điện thoại của mình để coi số bà H gọi thì Danh T bước đi lấy, lợi dụng sự sơ hở của nhóm bà C nên P bỏ chạy và la lên nhờ cầu cứu. Thấy P bỏ chạy, bà C kêu rượt đuổi theo bắt giữ P lại thì L, T và Từ T cầm hung khí đuổi theo bắt được và đánh P gây thương tích. Lúc này, có bà Đoàn Thị L1 chứng kiến sự việc, đến can ngăn thì bị Kim L chửi nên bà L1 bỏ đi nơi khác.
Tiếp theo, bà C kêu Kim L, Từ T và Danh T bắt P ra Giá Rai để giữ chờ bà H đến giải quyết tiền bạc thì Từ T, Kim L, Danh T đồng ý. Lúc này, Từ T chuẩn bị và điều khiển xe, Kim L, Danh T dùng hung khí đe doạ buộc P lên xe ngồi giữa, Kim L thì ngồi sau canh giữ P, còn Danh T chở bà C chạy theo sau. Khi đến quán cà phê Trọng Nguyễn, thuộc khóm 2, phường 1, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu thì nhóm bà C dẫn P vào quán và bắt buộc P ngồi tại quán, còn L, T, T thì ngồi xung quanh canh giữ P. Sau đó, bà C kêu Từ T dùng điện thoại gọi cho bà H để P nói chuyện yêu cầu bà H đến quán Trọng Nguyễn để nói chuyện tiền bạc với bà C, do bà H lúc này sợ không dám đến quán để gặp bà C, nên bà H nhờ Huỳnh Bé D (D lô) đến quán Trọng Nguyên để nói chuyện với nhóm cuả bà Cúc . Khi D đến quán thì gặp Kim L, do đã quen biết nên D nói P là cháu của D, yêu cầu được dẫn P về thì Kim L đồng ý. Khi D, P đứng dậy đi về thì bà C đứng ra ngăn cản không cho D dẫn P về, yêu cầu bà H đến để gải quyết tiền bạc mới cho P về, nhưng D không đồng ý và tiếp tục dẫn P ra xe đưa về nhà.
Sau khi bị gây thương tích Trương Vạn P đến đều trị tại Trung T ý tế Thị xã Giá Rai. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 18 ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Trung T pháp y sở y tế Bạc Liêu thì thương tích của P là 06% do vật tầy tác động.
Đến khoảng 02, 03 ngày sau thì bà C có gặp đưa cho T số tiền 1.000.000 đồng trả công cho Từ T, Kim L, Danh T thì T có đưa cho T 300.000 đồng.
Đối với Danh T trong quá trình điều tra đã bỏ trốn , đến ngày 31/8/2020 Danh T bị bắt theo lệnh truy nã và bị tạm giữ, tạm giam cho đến nay.
Tại Cáo trạng số 53/CT- VKSGR-KSĐT ngày 11/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai truy tố các bị cáo Danh T về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai vẫn giữ nguyên bản Cáo trạng đã truy tố: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 157; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Danh T phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 12 tháng tù.
Đối với tang vật trong vụ án: Đã giải quyết tại bản án hình sự số 02/2021/HSST, ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này là có căn cứ.
Về phần trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết tại bản án hình sự số 02/2021/HSST, ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu và tại phiên tòa bị hại anh P không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này là có căn cứ.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại quyết định tổng hợp hình phạt số 01 ngày 13/6/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu buộc Danh T phải chấp hành 7 năm 6 tháng tù và đã chấp hành xong ngày 09/5/2017, đến ngày 24/12/2019 chưa được xóa án tích mà còn phạm tội do cố ý.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Không có.
Đối với bà Trần Hồng Cúc, Tư T và Kim L (Trắng) cùng với Danh T thực hiện hành vi bắt giữ Trương Văn P như đã nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai đã truy tố tại Cáo trạng số 43 ngày 07/10/2020, về tội: Bắt, giữ người trái pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự, nên không đặt ra xem xét tại cáo trạng này.
Tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận các hành vi phạm tội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Giá Rai, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa, bị cáo Danh T không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo không đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai đã truy tố.
Xét lời trình bày của bị hại Trương Vạn P quá trong trình Điều tra, truy tố và xét xử như sau: Vào lúc 16 giờ ngày 24/12/2019 bị cáo Danh T và đồng bọn có vô nhà của anh P, Danh T có đến giường của P lấy điện thoại đưa cho anh P để lấy số điện thoại của bà H nhằm điện bà H về để nói chuyện tiền bạc, theo yêu cầu của bà C; Danh T có tham gia rượt anh P khi anh P bỏ chạy, tại phiên Tòa anh P khẳng định Danh T có tham gia rượt, đánh P khi P bị té ngã; Danh T có cầm cây buộc P lên xe ngồi giữa để Từ T và Kim L chở ra Giá Rai; Danh T cùng đồng bọn có đến quán Trọng Nguyễn để giữ P tại quán.
Xét lời trình bày của Từ T quá trình Điều tra, truy tố, biên bản phiên tòa ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai và tại phiên tòa như sau: Vào lúc 16 giờ ngày 24/12/2019 Từ T cùng bị cáo Danh T, Kim L và bà C có vô nhà gặp anh P chủ yếu gặp bà H nói chuyện tiền bạc theo sự chỉ đạo của bà C, vì trước đó các bên có sự thỏa thuận khi làm cho bà C xong, bà C sẽ cho tiền tiêu xài; Danh T có tham gia cùng anh đi vô nhà anh P, khi vô nhà P Danh T có cầm khúc cây, anh Từ T cầm gậy ba khúc còn Kim L cầm dao tự chế; Khi vô nhà P Danh T có tham gia cầm cây đe dọa P để điện thoại kêu bà H về, Danh T có lấy điện thoại từ trên giường của P đưa cho P; Danh T và Kim L là người rượt P khi P bỏ chạy và Danh T có đánh anh P gây thương tích; Từ T chuẩn bị và điều khiển xe, Kim L, Danh T dùng hung khí đe doạ buộc P lên xe ngồi giữa, Kim L thì ngồi sau canh giữ P, còn Danh T chở bà C chạy theo sau; Khi đến quán cà phê Trọng Nguyễn, thuộc khóm 2, phường 1, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu thì Danh T có tham gia canh giữ P Trong quán. Vài ngày sau Danh T có nhận 300.000đ do Từ T đưa cho Danh T.
Xét lời trình bày của Kim L, Trần Thị Hồng C quá trình Điều tra, truy tố và biên bản phiên tòa ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai: Phù hợp với lời trình bày của Từ T và anh Trương Vạn P.
Xét lời trình bày của bị cáo Danh T tại phiên tòa: Bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên lời trình bày của anh P, Từ T tại phiên tòa đã khẳng định chính bị cáo là người rượt đuổi, đánh anh P và dùng vũ lực bắt anh P lên xe ngồi giữa để đưa ra Giá Rai, khi ra quán Trọng Nguyễn bị cáo có ngồi canh giữ P trong quán, các lời trình bày của Kim L, bà C và các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ cũng đã chứng minh bị cáo có thực hiện hành vi bắt, giữ anh P; Bị cáo cho rằng có đậu xe cách nhà anh P 700m nhưng lại nghe tiếng la trong nhà của anh P, lời trình bày trên của bị cáo là không phù hợp với sự thật khách quan, với khoảng cách trên thì không thể nghe tiếng la trong nhà của anh P được; Bị cáo cho rằng bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã của Công an là không đúng vì bị cáo không có bỏ trốn, tuy nhiên căn cứ vào các biên bản ngày 08/01/2020, ngày 31/01/2020 thể hiện bị cáo Danh T không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ, ngày 24/8/2020 Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thị xã giá Rai ra Quyết định truy nã bị cáo là phù hợp; Bị cáo cho rằng lời trình bày của anh P và anh Từ T tại phiên tòa là không đúng, xét lời trình bày của anh P và Từ T không thay đổi, phù hợp với lời khai của Kim L, Trần Hồng C, người làm chứng và phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, bị cáo Danh T không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử, đủ cơ sở nhận định bị cáo Danh T cùng đồng bọn có tham gia bắt giữ anh P, với mục đích theo sự chỉ đạo của bà C yêu cầu anh P điện bà H về để nói chuyện tiền bạc, do P bỏ chạy nên bị cáo Danh T cùng đồng bọn dùng hung khí rượt theo đánh, bắt P lại và dùng vũ lực buộc P lên xe ngồi giữa, sau đó Từ T dùng xe chở Kim L ngồi sau giữ P có đem theo hung khí chở P ngồi giữa ra Giá Rai trước, sau đó Danh T chở bà C theo sau, khi đến quán Trọng Nguyễn cả nhóm giữ P lại và ngồi chờ bà H đến để nói chuyện tiền bạc, với các hành vi nêu trên của bị cáo Danh T đã phạm vào tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 157 Bộ luật Hình sự, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai đã truy tố.
[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo cùng đồng bọn gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự trong địa phương; Bị cáo biết mình là người không có thẩm quyền bắt, giữ người nhưng bị cáo cùng đồng bọn dùng vũ lực bắt, giữ anh P một cách trái pháp luật; Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác là một trong những nội dung quan trọng của quyền tự do dân chủ của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; Bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích, đến ngày 24/12/2019 bị cáo tiếp tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới; Bị cáo không ăn năn, hối cải với hành vi phạm tội của mình, xem thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, cần có một mứt án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe và giáo giục cho bị cáo nói riêng và toàn xã hội nói chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Tại quyết định tổng hợp hình phạt số 01 ngày 13/6/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu buộc Danh T phải chấp hành 7 năm 6 tháng tù, đã chấp hành xong ngày 09/5/2017, chưa được xóa án tích, đến ngày 24/12/2019 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự nên bị cáo Danh T bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Không có.
[6] Về hình phạt bổ sung: Không có.
[7] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết tại bản án hình sự số 02/2021/HSST, ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này là có căn cứ.
[8] Đối với số tiền do bị cáo phạm tội mà có: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ hình sự, tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ, số tiền trên bị cáo Danh T chưa khắc phục, chưa giao nộp nên buộc bị cáo Danh T phải nộp số tiền 300.000đ nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.
[9] Trách nhiệm dân sự và hành vi của Trần Thị Hồng C, Từ T và Kim L: Đã giải quyết tại bản án hình sự số 02/2021/HSST, ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này là có căn cứ. Tại Phiên Tòa anh P không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.
[10] Sau khi bị gây thương tích Trương Vạn P đến đều trị tại Trung T ý tế Thị xã Giá Rai. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 18 ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Trung T pháp y sở y tế Bạc Liêu thì thương tích của P là 06% do vật tầy tác động. Do anh P không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét trong vụ án này là có căn cứ.
[11] Xét ý kiến đề xuất xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai có căn cứ nên Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận.
[12] Về án phí bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Danh T (tên gọi khác: T Mèo) phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” - Căn cứ: khoản 1 Điều 157; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
+ Xử phạt: Bị cáo Danh T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày 31/8/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra.
3. Về xử lý vật chứng: Không đặt ra.
4. Đối với số tiền do bị cáo phạm tội mà có: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Danh T phải nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.
5. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, Điều 135; khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Danh T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nôp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.
Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Bản án 08/2021/HSST ngày 01/03/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật
Số hiệu: | 08/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về