Bản án 08/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 08/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 268/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Đức Hải. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đức H; sinh ngày 18 tháng 02 năm 2001; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khối phố Mỹ B, phường An M, thành phố T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1975 và bà Dương Thị H, sinh năm 1974; gia đình có 02 người con, bị cáo là con đầu; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/7/2020, đến ngày 22/7/2020 được thay đổi sang biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/7/2020, Vương Ngọc Đ đến quán bar Diamond thuộc phường Hòa T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam chơi và ngồi cùng bàn với K (không rõ lai lịch cụ thể) và một số người bạn của K. K hỏi Đ có biết chỗ nào bán ma túy loại thuốc lắc và Ketamine để nhờ mua về sử dụng. Đ sử dụng tài khoản facebook tên “Đann Ngọc” nhắn tin qua tài khoản facebook tên “Trang Trang” của Phan Thị T hỏi T có biết ai bán ma túy loại thuốc lắc và Ketamine không và nhờ T mua giúp, đồng thời rủ T đến quán Diamond chơi và cùng sử dụng ma túy. T nhắn tin đến tài khoản facebook “Hắc Long Hải” của Nguyễn Đức H hỏi có biết chỗ nào bán ma túy loại thuốc lắc và Ketamine không và giá bán như thế nào, Nguyễn Đức H biết một người tên N (không rõ lai lịch cụ thể) hay ở khu vực đường Huỳnh Thúc Kháng, thành phố T, tỉnh Quảng Nam có bán thuốc lắc giá một viên là 450.000 đồng và một chỉ khay (một gói Ketamine) giá 1.800.000 đồng nên nói giá cho T biết và nói T đến nhà H tại số 02 Phan Chu Trinh, thành phố T, tỉnh Quảng Nam để H dẫn đi mua ma túy. T nhắn tin báo giá bán ma túy lại cho Đ biết, Đ nói lại cho K, K đứng ra gom tiền của những người đang ngồi chơi trong bàn được 3.600.000 đồng (không xác định được những ai góp tiền, mỗi người bao nhiêu tiền, riêng Đ không góp tiền). K đưa số tiền 3.600.000 đồng cho Đ và nhờ Đ mua 04 viên thuốc lắc và một gói Ketamine để sử dụng. Lúc này, Đ hỏi Nguyễn Đức P (sinh năm 2001, trú tại: Thôn An Hải Đ, xã Tam Q, huyện N) đang ngồi chơi ở một bàn khác tại quán Diamond để mượn xe đi mua đồ ăn khuya. P đồng ý và giao xe mô tô hiệu Liberty biển kiểm soát 92N1 - 455.73 cho Đ mượn.

Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Phan Thị T đi xe taxi đến quán Diamond gặp Đ, Đ điều khiển xe mô tô 92N1 - 455.73 chở T đến nhà Nguyễn Đức H để đón H. H chở Đ và T đi đến khu vực trước quán bún chả cá Thanh Thủy trên đường Huỳnh Thúc Kháng (thuộc phường An X, thành phố T, tỉnh Quảng Nam) thì dừng xe, Đang đưa cho T số tiền 3.600.000 đồng để T đưa cho H đi mua ma túy, còn Đ điều khiển xe chạy đi mua bánh mỳ. T và H đi bộ qua bên kia đường đến khu vực trước số nhà 87 đường Huỳnh Thúc Kháng. Lúc này, H thấy N nên đi bộ lại gặp N để mua ma túy (cách vị trí T đứng khoảng 50 mét). H hỏi mua 04 viên thuốc lắc và một gói Ketamine, nhưng N nói chỉ có thuốc lắc và bán cho Hải 04 viên thuốc lắc đựng trong túi ni lông với giá 1.800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Hải bỏ vào túi quần rồi đi lại đưa cho T, T bỏ túi ni lông đựng 04 viên thuốc lắc vào túi xách da màu đen đang cầm trên tay. Lúc này, Tổ công tác Công an thành phố Tam Kỳ phát hiện đến kiểm tra bắt quả tang Trang đang tàng trữ 04 viên ma túy loại thuốc lắc, còn Hải phát hiện thấy lực lượng công an thì bỏ chạy. Đ mua bánh mỳ xong và quay lại chỗ T thì phát hiện T bị cơ quan Công an bắt giữ, trên vỉa hè gần chỗ T bị bắt có rơi ra 02 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone (01 điện thoại của Đ đưa T giữ giùm và 01 điện thoại di động hiệu Iphone của T), Đ đi lại nhặt 02 điện thoại cất giữ và chạy xe đến quán bar Diamond trả xe cho P và đưa 01 điện thoại di động hiệu Iphone của T nhờ P cất dùm để đưa lại cho T.

Ngày 13/7/2020, Nguyễn Đức H và Vương Ngọc Đ lần lượt đến Công an thành phố T đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) đã tiến hành cho các bị can nhận dạng người qua ảnh thì Phan Thị T nhận ra và khẳng định chính Vương Ngọc Đ là người nhờ T mua ma túy, nhận ra Nguyễn Đức H chính là người T nhờ đi mua ma túy. Vương Ngọc Đ nhận ra và khẳng định chính Phan Thị T và Nguyễn Đức H là người mua ma túy giúp Đ. Nguyễn Đức H nhận ra và khẳng định chính Phan Thị T và Vương Ngọc Đ là người nhờ H mua ma túy.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành kiểm tra nội dung lưu trữ trên điện thoại của Phan Thị T và trích xuất được toàn bộ nội dung tin nhắn từ tài khoản facebook “Trang Trang” của Phan Thị T với tài khoản facebook “Đann Ngọc” của Vương Ngọc Đ và tài khoản facebook “Hắc Long Hải” của Nguyễn Đức H thể hiện nội dung Đ trao đổi nhờ T mua ma túy, Trang trao đổi với H nội dung T nhờ H mua ma túy. Nguyễn Đức H và Vương Ngọc Đ đều thừa nhận và khẳng định nội dung tin nhắn trích xuất từ điện thoại của Phan Thị T là đúng nội dung đã trao đổi.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 04 (Bốn) viên nén hình trụ tròn, màu cam, một mặt có đường rãnh ở giữa, một mặt có in hình chữ “V” và “L” lồng vào nhau;

- 01 (Một) túi xách da màu đen của Phan Thị T sử dụng để đựng ma túy;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0905964*** của Phan Thị T;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0799427*** của Vương Ngọc Đ;

- 01 (Một) mũ lưỡi trai màu đen, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Coolpad gắn sim số 0779547*** và 01 (Một) đồng hồ kim loại màu vàng (bị đứt dây) của Nguyễn Đức H;

- Số tiền 1.800.000 đồng do Nguyễn Đức H tự nguyện giao nộp.

Tại Kết luận giám định số 89/PC09 ngày 16/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: 04 (Bốn) viên nén màu cam có cùng hình dạng (hình trụ tròn, trên một mặt có dập chữ “V” và “L” lồng vào nhau) là ma túy loại MDMA, có khối lượng 1,307 gam.

Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 50 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Đức H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ 10 ngày (từ ngày 13/7/2020 đến ngày 22/7/2020).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Vào ngày 04/11/2020, bị cáo Nguyễn Đức H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời, đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo 12 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mức án thấp nhất của khung hình phạt và không nặng. Tại cấp phúc thẩm, không phát sinh tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, xin cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Đức H có đơn kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo. Xét việc kháng cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ được chứng minh có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Vương Ngọc Đ nhờ bị cáo Phan Thị T và bị cáo Nguyễn Đức H tìm mua giúp ma túy cho người thanh niên tên K mục đích để được K cho sử dụng. Bị cáo T và H đồng ý giúp bị cáo Đ tìm mua ma túy là do chỗ quen biết với nhau, không có mục đích vụ lợi nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ khối lượng chất ma túy MDMA thu giữ được là 1,307 gam. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam đã kết án bị cáo Nguyễn Đức Hải về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đức H thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 01 năm tù là có cơ sở, mức án thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm, không phát sinh tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Xét thấy quyết định về phần hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp, không nặng, đáp ứng được yêu cầu giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Đức H 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ 10 ngày (từ ngày 13/7/2020 đến ngày 22/7/2020).

2. Bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000 đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 15/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về