Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 12 và 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 256/2020/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị H, sinh năm 1977 Địa chỉ: Số 98, khóm B, phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Anh B, sinh năm 1975 Địa chỉ: Số 98, khóm B, phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn chị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh B tìm hiểu khoảng 03 năm thì tiến tới hôn nhân chung sống vợ chồng vào năm 2000, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2000 tại UBND xã Tân Qui Tây, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung bên nhà anh B. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, khoảng năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do anh B cờ bạc, rượu chè không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình, nhi ều lần chị H đã khuyên can nhưng anh B không sửa đổi. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung. Khoảng tháng 5/2020, khi vợ chồng gây gỗ nhau anh B còn đánh chị H, do không chịu đựng được tính tình của anh B nên chị H đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian chị H đi thì anh B cũng không hỏi thăm tìm chị H để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay nhận thấy tình cảm đối với anh B không còn, mâu thuẫn giữa vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị H yêu cầu ly hôn anh B.

Về nuôi con chung: Quá trình chung sống với anh B có 01 con chung tên G, sinh ngày 11/01/2001. Con đã thành niên nên không yêu c ầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Bị đơn anh B: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh B vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh B đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H. Cho chị H và anh B ly hôn; Về con chung đã thành niên nên không xem xét. Về chia tài sản chung, nợ chung đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại khóm B, phường A, thành phố S, Đồng Tháp. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, Đồng Tháp.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Phao Thanh B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh B chung sống vợ chồng từ năm 2000 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2000 tại UBND xã Tân Qui Tây, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh B được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, trong quá trình chung sống giữa chị H và anh B đã phát sinh nhiều mâu thuẫn anh B không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không có sự quan tâm chăm sóc cho gia đình. Vợ chồng không có sự chia sẽ với nhau trong cuộc sống cũng như công việc. Chị H đã nhiều lần khuyên và cho anh B nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng anh B vẫn không đổi mà còn đánh chị H mỗi khi vợ chồng gây gỗ. Từ đó làm cho tình cảm giữa vợ chồng ngày càng bị tổn thương, rạn nứt, không thể hàn gắn được. Tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm với anh B. Về phía anh B quá trình giải quyết vụ án anh B biết việc chị H yêu cầu ly hôn nhưng vẫn không có văn bản trình bày ý kiến và cũng không có thiện chí đến Tòa tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm với chị H, cho thấy anh B đã từ bỏ quyền lợi của mình, anh B không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị H. Điều đó chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa chị Hồng và anh B đã không thể hàn gắn được, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng. Do đó, chị Hồng yêu cầu ly hôn anh B là có căn cứ và phù hợp với quy pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị H và anh B chung sống có 01 con tên G, sinh ngày 11/01/2001. Hiện con đã thành niên nên không xem xét giải quyết.

[2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

Đối với ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều: 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị H. Cho ly hôn giữa chị H và anh B.

2. Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên G, sinh ngày 11/01/2001, con đã thành niên nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị H nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn). Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị H đã nộp ngày 30/9/2020 theo biên lai thu số 0008334 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, được khấu trừ toàn bộ vào án phí phải nộp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về