Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 02 tháng 2 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1996; địa chỉ: Khu 14, xã T, huyện h, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1986, địa chỉ: Khu 14, xã T, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11 tháng 11 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị có tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn với anh T ngày 10/01/2014, tại Ủy ban nhân dân xã Y cũ, nay là xã T, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, anh T đã nhiều lần uống rượu say về đập phá tài sản, đánh đập chị, tuy đã được hai bên gia đình nhiều lần hòa giải nhưng không khắc phục được. Đến cuối năm 2018, chị đã về ở với mẹ đẻ cho đến nay. Vợ chồng không còn thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Tuấn G, sinh ngày 02/5/2013 và Nguyễn Thị Thảo T, sinh ngày 21/01/2015. Nếu ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị L vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn là anh Nguyễn Xuân T đã được tòa án triệu tập, niêm yết hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

Ý kiến của Ủy ban nhân dân xã T và Hội phụ nữ xã T: Chị L và anh T kết hôn ngày 20/01/2014, tại UBND xã Y cũ, nay là xã T, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống. Nay chị L xin ly hôn với anh T, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật. Khi ly hôn, đề nghị Tòa án giao cho chị L trực tiếp nuôi 02 con chung vì chị L có đủ điều kiện nuôi dưỡng và 02 con chung đang ở trực tiếp với chị L.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập, niêm yết hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Xuân T.

Về con chung: Xử giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Tuấn G, sinh ngày 02/5/2013 và Nguyễn Thị Thảo T, sinh ngày 21/01/2015.

Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không yêu cầu tòa án giải quyết. Về án phí: Chị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Phiên tòa lần thứ nhất ngày 18/01/2020, bị đơn là anh Nguyễn Xuân T đã được triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là anh Nguyễn Xuân T đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]Về quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh T được xác lập và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống có mâu thuẫn phát sinh do bất đồng ý kiến trong cuộc sống.

Vợ chồng không còn thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Xét thấy tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu kéo dài thì không có lợi cho cả hai bên, chị L cương quyết xin ly hôn với anh T vì tình cảm không còn, anh T bỏ mặc và không có biện pháp gì để chị L về đoàn tụ với anh.

Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu và xử cho chị L được ly hôn với anh T.

[3]Về con chung: Anh T đi làm không trực tiếp chăm sóc các con chung.

Hiện nay các con chung đang ở trực tiếp với chị L, chị L có đủ điều kiện nuôi con chung nên giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.

Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không giải quyết.

Anh T vắng mặt nên không có lời khai, yêu cầu gì nên Tòa án không xem xét. Nếu có yêu cầu sẽ được xem xét trong một vụ, việc khác.

[5]V ề á n p h í : Chị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Xuân T.

Về con chung: Xử giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Tuấn G, sinh ngày 02/5/2013 và Nguyễn Thị Thảo T, sinh ngày 21/01/2015. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Xác nhận chị L đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002536 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để đề nghị toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về