TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP,TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08 /QĐXXST-HS ngày 15/10/2020 đối với bị cáo:
Hàng A N, tên gọi khác: Không, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1990, tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hàng A S và bà Mùa Thị P; có vợ và có 6 con; tiền án; tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt tạm giam từ ngày 11/8/2020 cho đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 6 giờ 00 ngày 11 tháng 8 năm 2020 Hàng A N đi từ nhà ở bản P, xã M đến bản Nong Phụ, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, để mua phụ tùng xe máy, khi quay về xin được 01 cục nhựa thuốc phiện của một người không quen biết mục đích về chữa bệnh cho gia súc, khi về đến bản Phá Thóng, Mường Và thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng trên.
Hồi 15 giờ ngày 12/8/2020 Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng. Tách bì, cân tịnh toàn bộ cục nhựa màu đen nâu nghi là thuốc phiện có khối lượng 4,94 gam, lấy 0,88 gam làm mẫu giám định ký hiệu H, còn lại 4,06 gam là vật chứng lưu kho.
Bản kết luận giám định số 1317 ngày 14/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy, loại thuốc phiện; khối lượng của mẫu giám định là 0,88 gam. khối lượng ma túy thu giữ là 4,94 gam; loại thuốc phiện.
Bản cáo trạng số 81/CT-VKSSC ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Hàng A N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
xử phạt bị cáo Hàng A Nụ, từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng:
Tịch thu để tiêu hủy 01(một) phong bì thư niêm phong, bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ và 01 mảnh giấy ni lon màu trắng cũ cùng gói vật chứng lưu kho ký hiệu H1 có khối lượng 4,06 gam thuốc phiện.
Về án phí: Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về nguồn gốc ma túy; bị cáo khai xin của một người dân tộc Mông, không quen biết, không rõ địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp không có căn cứ để xử lý trong vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về chứng cứ xác định tội danh:
Tại phiên tòa bị cáo Hàng A N khai nhận ngày 11 tháng 8 năm 2020 đã xin được 01 cục thuốc phiện của một người không quen biết, khi đang cất giấu trên người thì bị Công an huyện Sốp Cộp bắt quả tang đã lập biên bản thu giữ 4,94 gam thuốc phiện; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 10 giờ ngày 11 tháng 8 năm 2020;
Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 1317, ngày 14/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 4,94 gam ma túy, loại Thuốc phiện.
Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hàng A N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Không có Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Với các căn cứ nêu trên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp kết luận bị cáo Nụ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy gia đình bị cáo không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng.
[6]Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Vật chứng còn lại 01(một) phong bì thư niêm phong, bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ và 01 mảnh giấy ni lon màu trắng cũ cùng gói vật chứng lưu kho ký hiệu H1 có khối lượng 4,06 gam thuốc phiện là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo sống ở bản, xã đặc biệt khó khăn ; Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[8] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1.Về Điều luật áp dụng : Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố Hàng A N, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt : Xử phạt Hàng A N 30 (Ba mươi) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/8/2020.
3. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.
4. Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu để tiêu hủy 01(một) phong bì thư niêm phong, bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ và 01 mảnh giấy ni lon màu trắng cũ cùng gói vật chứng lưu kho ký hiệu H1 có khối lượng 4,06 gam thuốc phiện; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 10 năm 2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hàng A N không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/10/2020).
Bản án 08/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 08/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về