Bản án 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 221/2019/HSST ngày 10/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 31/12/2019 đối với bị cáo:

Trần T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 14/4/2000 tại Trà Vinh; Hộ khẩu thường trú: Xã X, huyện T, tỉnh Trà Vinh; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: phụ hồ; Con ông Trần Kim R và bà Kim Thị Thu H; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ ; Tiền án, tiền sự: Không;; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 06/10/2019 (có mặt).

Bị hại: Bà Bùi Phương T, sinh năm 1996, tr tại: Xã S, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h 45 ph t ngày 06/10/2019, Trần T đi bộ lang thang ở khu vực phường 6, quận Gò Vấp khi đi đến trước nhà số 161 Dương Quảng Hàm, Tú nhìn thấy xe gắn máy hiệu Honda SH mode biển số 60B4-xxx.xx đang dựng trước nhà, không người trông coi, ổ khóa công tắc có cả chìa khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài, T đi tới lén l t dắt xe lùi xuống đường nổ máy để tẩu thoát thì bị té ngã do xe có khóa bằng dây cáp, l c này chị Bùi Phương T – sinh năm 1996, là chủ phát hiện tri hô và được người dân hỗ trợ bắt giữ T trình báo Công an.

Vật chứng thu giữ:

-01 xe gắn máy hiệu Honda SH mode biển số 60B4-xxx.xx, chị T khai xe mới mua 8/2019 trị giá 50.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 267/KL ngày 09/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, kết luận: ước tính trị giá xe máy SH mode do Công ty Honda Việt Nam sản xuất đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 06/10/2019 là 45.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả xe cho chủ sở hữu. Về bồi thường dân sự: Bị hại Bùi Phương T đã nhận lại xe, không có yêu cầu gì khác.

Tại cơ quan điều tra bị cáo nhận tội và khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản cáo trạng số 01/CTr-VKS ngày 03/12/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Trần T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử

- Xử phạt bị cáo Trần T từ 09 đến 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Trần T đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Trần T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại, bị cáo đã lén l t thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là 01 chiếc xe gắn máy định giá là 45.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở, cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, để giảm nhẹ một phần hình phạt bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay, bị hại là bà Bùi Phương T vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện bà T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe gắn máy biển số Honda SH mode biển số 60B4-xxx.xx là tài sản bị trộm cắp, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, xét thấy việc cơ quan điều tra trao trả chiếc xe trên là đ ng qui định của pháp luật, nên không đưa ra xem xét lại.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Trần T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo Trần T 09(chín) tháng tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày 06/10/2019.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về