Bản án 08/2020/HS-PT ngày 11/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 08/2020/HS-PT NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 11/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn C, sinh ngày 20/02/1971 tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Nơi cư trú: Thôn P, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nông; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn D (chết) và bà Huỳnh Thị M; Vợ, con: Chưa có; tiền án: Có ba tiền án về tội Trộm cắp tài sản. (cụ thể: Ngày 24/5/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ (nay là Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ), tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 01 năm tù theo bản án số 30/2010/HSST ngày 24/5/2010; ngày 27/8/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 18 tháng tù theo bản án số 151/HS-PT ngày 27/8/2012; ngày 23/5/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 năm tù theo bản án số 113/HS-PT ngày 23/5/2014); tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2020 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn C: Bà Hồng Thị T – Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi;

Địa chỉ: Số 108 P, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 27/5/2020 đến 30/5/2020, Nguyễn C hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ, ngày 27/5/2020, Nguyễn C đi phía bên hông nhà có mảnh đất trống từ trước ra phía sau nhà bà Nguyễn Thị Linh P (thôn P, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi), thấy có lưới B40 bị ngã nên Nguyễn C đã đi vào nhà và đi đến khu vực trước nhà nơi có bàn bi-a cũng là nơi bán cà phê thì thấy có 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 model: TA-1034 (loại bàn phím) màu đen để trên bàn máy may bên ngoài quầy bán cà phê, Nguyễn C lấy điện thoại và bỏ vào túi quần, sau đó Nguyễn C đi đến phòng ngủ ở phía sau đối diện với nhà vệ sinh và nhà tắm thì thấy cửa phòng mở và có đèn sáng mờ nên đi vào phòng, Nguyễn C dùng 01 bật lửa màu xanh đậm có thiết kế bộ phận đèn chiếu sáng ở phần đáy để rọi tìm tài sản, thấy có 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy J4 màu tím hồng nên lấy điện thoại bọc vào túi quần rồi đi bộ về nhà. Nguyễn C đem hai điện thoại đã lấy trộm được cất giấu dưới nệm trên đầu nằm giường ngủ.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 30/5/2020, Nguyễn C đi bộ từ nhà đến nhà của ông Lê Hồng S (thôn N, xã P, thị xã Đ, Quảng Ngãi), khi đến nơi Nguyễn C kéo lưới B40 trước nhà qua một bên rồi đi vào nhà từ cửa chính và đi vào trong nhà đến vị trí phòng bếp có đèn sáng mờ, thấy 01 điện thoại di động hiệu Samsung M20 M205 Gray màu xanh đen đang để trên đầu nằm của chiếc giường có người đang nằm ngủ, Nguyễn C lấy điện thoại bọc vào trong túi quần rồi nhìn sang bàn kính để tivi gần giường ngủ, thấy trên bàn có để 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy A3 màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu iPhone 4 và 01 ví da màu đen, Nguyễn C lấy điện thoại di dộng hiệu Samsung A3 màu hồng, điện thoại di động hiệu iPhone 4 bọc vào túi quần và lấy cái ví da rồi đi ra ngoài sân trước nhà ngay cửa nhà máy xay xát lúa gạo và lục tìm tài sản trong ví nhưng không có tiền nên Nguyễn C đã bỏ cái ví da lại tại sân nhà ông S rồi đi bộ về nhà. Khi đi đến khu vực đám mía và đám cỏ gần bên đường ở phía trên cầu Suối Đục thuộc thôn N, xã P thì Nguyễn C lấy tài sản vừa trộm được ra xem thì thấy điện thoại di động hiệu Samsung A3 màu hồng có nhiều vết nứt, vỡ ở mặt trước và mặt sau, còn điện thoại di động hiệu iPhone 4 đã cũ nên Nguyễn C đã vứt hai điện thoại này tại đám mía và đám cỏ rồi đi về nhà và lấy điện thoại di động hiệu Samsung M20 M205 Gray màu xanh đen đã lấy trộm được cất giấu dưới chiếc chiếu trên đầu nằm giường ngủ.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi ngày 06/6/2020 kết luận giá trị còn lại của điện thoại di động hiệu Samsung Glaxy J4 màu tím hồng là 1.715.000đồng và điện thoại di động hiệu Nokia 105 model: TA – 1034 màu đen là 240.000đồng (tổng cộng giá trị tài sản trộm ngày 27/5/2020 là 1.955.000đồng); giá trị còn lại của điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A3 màu hồng là 540.000đồng, điện thoại di động hiệu Samsung M20 M205 Gray màu đen là 2.360.000đồng và điện thoại di động hiệu Iphone 4 là 250.000đồng (tổng cộng giá trị tài sản trộm ngày 30/5/2020 là 3.150.000 đồng).

Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổi sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn C 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2020.

Ngoài ra, còn tuyên về phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28/9/2020, bị cáo Nguyễn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

*Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thì thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét về nhân thân và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù là không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn C, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo C phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo hối hận về việc làm của mình nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn C, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi của bị cáo Nguyễn C: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận vào khoảng thời gian từ ngày 27/5/2020 đến 30/5/2020 Nguyễn C hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản: Ngày 27/5/2020 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà bà Nguyễn Thị Linh P 01 điện thoại di động hiệu Samsung Glaxy J4 màu tím hồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 model: TA – 1034 màu đen. Tổng cộng giá trị tài sản trộm ngày 27/5/2020 là 1.955.000 đồng. Ngày 30/5/2020, bị cáo trộm cắp tại nhà của ông Nguyễn Hồng S 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A3 màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung M20 M205 Gray màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4. Tổng cộng giá trị tài sản trộm ngày 30/5/2020 là 3.150.000 đồng.

Năm 2014, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn C, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo đã có ba tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không ăn năn hối cải. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự xã hội ở địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cân nhắc về nhân thân áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên.

[3] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Đề nghị của Người bào chữa không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn C. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổi sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn C 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 30/5/2020.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

387
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-PT ngày 11/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về