TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG
Trong ngày 20 tháng 5 năm 2020,tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2020/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về việc “ Tranh chấp ly hôn và yêu cầu không công nhận vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:09/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Đào Thị Thùy D, sinh năm: 1999 (Có mặt) địa chỉ: Số nhà 75, ấp K, xã B, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
2/. Bị đơn: Anh Nguyễn T, sinh năm: 1991 (Có mặt) địa chỉ: Số nhà 217, ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/02/2020 và các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đào Thị Thùy D trình bày:
Chị D và anh Nguyễn Thiện T chung sống với nhau vào năm 2017, có tổ chức đám cưới không có đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống vợ chồng có tìm hiểu nhau trước mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.
Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2018, thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T thường xuyên đi tìm thú vui bên ngoài, tụ tập bè bạn ăn chơi hút chít ma tuý dẫn đến nghiện ngập, anh không có trách nhiệm với vợ con. Chị D có khuyên nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi. Từ đó làm cho vợ chồng luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù họp.
Nay, chị D xét thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng vợ chồng ly thân từ tháng 2 năm 2018 cho đến nay.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Đào Thị Kim Ý, sinh ngày 08/8/2018 cháu đã có giấy khai sanh và đang ở với chị D.
- Về tài sản chung của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về phần nợ: Vợ chồng không nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng.
Tại phiên tòa chị D yêu cầu:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị D yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Thiện T yêu cầu Tòa án không công nhận giữa chị và anh Th là vợ chồng.
- Về con chung: Chị D yêu cầu được nuôi con tên Đào Thị Kim Y, sinh ngày 08/8/2018, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về phần nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 08 tháng 5 năm 2020 và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thiện T trình bày:
Qua lời trình bày của chị Đào Thị Thùy D về năm chung sống, vợ chồng không có đăng ký kết hôn, có 01 con chung, vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng là đúng.
Nguyên nhân mâu thuẫn anh T cho rằng: Do vợ chồng không có tiếng nói chung có lối sống không phù hợp vợ chồng thường xuyên cải vã, nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được vợ chồng đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay.
Tại phiên Tòa anh T có ý kiến như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh T đồng ý ly hôn với với chị Đào Thị Thùy D và yêu cầu không công nhận giữa anh và chị D là vợ chồng.
- Về quan hệ con chung : Anh T đồng ý giao con tên Đào Thị Kim Y, sinh ngày 08/8/2018 cho chị Đào Thị Thùy D trực tiếp, trong nôm, chăm sóc nuôi dưỡng. Anh không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là quan hệ tranh chấp ly hôn không công nhận vợ chồng, bị đơn anh Nguyễn Thiện Th, cư trú tại: Số nhà 217, tổ 05, ấp, xã B, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Theo quy định tại khoản 7 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thầm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị Thùy D và anh Nguyễn Thiện T tự nguyện xác lập mối quan hệ hôn nhân từ năm 2017 tuy có đủ điều kiện kết hôn nhưng anh chị không đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân của anh chị đã vi phạm về đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Cho nên việc kết hôn là không thỏa mãn về mặt hình thức.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06- 01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ”. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con… thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình.
Xét mâu thuẫn thực tế của vợ chồng anh chị đến mức trầm trọng, đời sống chung hiện tại cũng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, tại biên bản hòa giải ngày 08 tháng 5 năm 2020 và tại phiên tòa anh chị điều thừa nhận hiện nay vợ chồng không còn tình cảm với nhau, không ai quan tâm đến đời sống của ai, vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Đồng thời, hôn nhân của anh chị có vị phạm về mặt hình thức, nên Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị Thùy D và anh Nguyễn Thiện T.
[3] Về con chung: Chị D, anh T xác nhận vợ chồng có một con chung tên Đào Thị Kim Ý, sinh ngày 08/8/2018, tại biên bản hòa giải ngày 08/5/2020 và tại phiên tòa chị D anh T thỏa thuận tiếp tục giao cháu Đào Thị Kim Y, sinh ngày 08/8/2018 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi con. Do đó Hội đồng xét xử thống nhất ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị D, anh T. Tiếp tục giao cháu Đào Thị Kim Y, sinh ngày 08/8/2018 cho chị Đào Thị Thùy D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thiện T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, Hội đồng không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đào Thị Thùy D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 7 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4, Điều 147, Điều 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53; các Điều 57, 81,82,83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp.
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đào Thị Thùy D.
1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị Thùy D và anh Nguyễn Thiện T.
2. Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Đào Thị Thùy D, anh Nguyễn Thiện T. Tiếp tục giao cháu Đào Thị Kim Y, sinh ngày 08/8/2018 cho chị Đào Thị Thùy D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thiện T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, Hội đồng không xem xét giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đào Thị Thùy D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng )theo lai thu số: 0003769 ngày 25/02/2020 của Chi cục Thi hành dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
5. Quyền kháng cáo: Chị Đào Thị Thùy D, anh Nguyễn Thiện T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân.
Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 20/05/2020 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu không công nhận vợ chồng
Số hiệu: | 08/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về